< Thánh Thi 74 >
1 Đức Chúa Trời ôi! vì sao Chúa bỏ chúng tôi luôn luôn? Nhân sao cơn giận Chúa nổi phừng cùng bầy chiên của đồng cỏ Chúa?
O Elohim Pathen, idia hitihchan pi neipaidoh u hitam? Ipi ding'a na kelngoite douna a hichangeihi na lunghan ham?
2 Xin hãy nhớ lại hội Chúa mà Chúa đã được khi xưa, Và chuộc lại đặng làm phần cơ nghiệp của Chúa; Cũng hãy nhớ luôn núi Si-ôn, là nơi Chúa đã ở.
Khang masalai peh a nalhentum chate kahiu neisumil hih beh un, hiche nam nagoulu tum dia na ngeh jing chu kahiuve! chule hiche lei a na inn Jerusalem jong sumil hih beh in.
3 Cầu xin Chúa đưa bước đến các nơi hư nát đời đời: Kẻ thù nghịch đã phá tan hết trong nơi thánh.
Hiche khopi kisumangsa a hin hungvahlen lang, na melmate'n na houin hi ichanggei a asuhset'u hitam hinven.
4 Các cừu địch Chúa đã gầm hét giữa hội Chúa; Chúng nó dựng cờ chúng nó để làm dấu hiệu.
Hiche mun a hi na melmate'n haan la anasap u hitam, hiche mun a hi aponlap u ana khaisang'u ahi.
5 Chúng nó giống như kẻ giơ rìu lên Trong đám rừng rậm kia.
Amahon gammang lah a thingtuhna a heicha analap u bang'in,
6 Bây giờ chúng nó dùng rìu và búa Đập bể hết thảy vật chạm-trổ.
Heicha le chempong toh tho'n anakhenchip'un ahi.
7 Chúng nó đã lấy lửa đốt nơi thánh Chúa, Làm cho chỗ danh Chúa ở ra phàm đến đất.
Amahon namuntheng a na mintheng kitahdohho chu asuboh un,
8 Chúng nó nói trong lòng rằng: Chúng ta hãy hủy phá chung cả hết thảy đi. Chúng nó đã đốt các nhà hội của Đức Chúa Trời trong xứ.
Chuban in jong “abonchan suseu hite” akitikit uvin, Elohim Pathen houna mun jouse jong anahallhah u ahitai.
9 Chúng tôi chẳng còn thấy các ngọn cờ chúng tôi; Không còn đấng tiên tri nữa, Và giữa chúng tôi cũng chẳng có ai biết đến chừng nào.
Keihon melchihna thil kidangtahho chu ka mudohjou tapouvin ahi. Themgaoho jouse la aumgam tapouvin, chule hiche hi itihleh kichai ding ti chu koimacha ahe aumpon ahi.
10 Đức Chúa Trời ôi! kẻ cừu địch sẽ nói sỉ nhục cho đến chừng nào? Kẻ thù nghịch há sẽ phạm danh Chúa hoài sao?
O Pathen Elohim ka melmate'u hi itihchanggei na kihousetsah ding ham? Namin theng hi tonsot a nasuh molphou sah ding hitam?
11 Sao Chúa rứt tay lại, tức là tay hữu Chúa? Khá rút nó ra khỏi lòng, và tiêu diệt chúng nó đi!
Ipi dia na banjet thahatna hi na chalohsah lou ham? Na khut thahattah chu mangcha'n lang amaho khu sugam tan.
12 Dầu vậy, Đức Chúa Trời là Vua tôi từ xưa, Vẫn làm sự cứu rỗi trên khắp trái đất.
O Elohim Pathen nangma hi khangluilai a pat a leiset chung'a huhhingna hinpolut a ka lengpa na hi.
13 Chúa đã dùng quyền năng Chúa mà rẽ biển ra, Bẻ gãy đầu quái vật trong nước.
Nang man na ban thahat'in twikhanglen jong na lhehkhen in, twikhanglen a cheng sahemho luchang jong navohchip soh hel e.
14 Chúa chà nát đầu lê-vi-a-than, Ban nó làm thực vật cho dân ở đồng vắng.
Nangman Leviathan luchang jong nasuchip in atahsa neldigam a um ganhingho vahnan na mangtai.
15 Chúa khiến suối và khe phun nước, Và làm cho khô các sông lớn.
Nang man leiset a kum nakihei sah in leiset a kon'in twi tamtah na putdohsah in chule a-itih a kang khalou vadungho jong na sukang jin ahi.
16 Ngày thuộc về Chúa, đêm cũng vậy; Chúa đã sắm sửa mặt trăng và mặt trời.
Sun le jan jong nang'a ahin: nangman vanlai jol'a avahho jouse le nisa jong na sem in ahi.
17 Chúa đã đặt các bờ cõi của đất, Và làm nên mùa hè và mùa đông.
Nangman leiset gamgiho jouse jong na lhehkhen in chule nipilai le phalbilai jong na gongtoh in ahi.
18 Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nhớ rằng kẻ thù nghịch đã sỉ nhục, Và một dân ngu dại đã phạm đến danh Ngài.
Ven Yahweh Pakai hiche melmaho hin ichangei a nangma hi na houset'u hitam, ima hetkhenna neilou nam miten na min hi asuminseuvin ahi.
19 Xin chớ phó cho thú dữ linh hồn bò câu đất của Chúa; Cũng đừng quên hoài kẻ khốn cùng của Chúa.
Hiche gamsa tobang miphalouho hi vapal tobang miphaho hi suhmangsah hihbeh in, na mite gentheina hi itihchan'in jong sumil hihbeh in.
20 Xin Chúa đoái đến sự giao ước; Vì các nơi tối tăm của đất đều đầy dẫy sự hung bạo.
Na kitepna kinep umtahho chu sumil hihbeh in, ajeh chu gamsung hi muthim le pumhat a natohna adimset e!
21 Nguyện kẻ bị hà hiếp chớ trở về hổ thẹn; Nguyện kẻ khốn cùng và người thiếu thốn ngợi khen danh Chúa.
Noise le chotpha a umte hi jumna tosah kit hihbeh in, amavang mivaicha le tahlelte na min choi-at sah in.
22 Hỡi Đức Chúa Trời, hãy chỗi dậy, binh vực duyên cớ Chúa. Hãy nhớ lại thể nào kẻ ngu dại hằng ngày sỉ nhục Chúa.
Na melmate'n na housetnaho le na doumah mah asap a saptho jenghou hi nahsahmon koihihbeh in.
23 Xin chớ quên tiếng kẻ cừu địch Chúa: Sự ồn ào của kẻ dấy nghịch cùng Chúa thấu lên không ngớt.
Namel ten aseidoh uchu nungvet kit hih in ahiloule amaho phunchel jing na chu.