< Các Thủ Lãnh 9 >
1 A-bi-mê-léc, con trai Giê-ru-ba-anh, sang qua Si-chem, đến cùng các cậu và cả nhà ông ngoại mình, mà nói rằng:
Ug si Abimelech ang anak nga lalake ni Jerobaal miadto sa Sichem ngadto sa mga igsoon sa iyang inahan, ug nakigsulti kanila, ug sa tibook nga panimalay sa balay sa amahan sa iyang inahan, nga nagaingon:
2 Xin các ông hãy hỏi hết thảy người Si-chem, mà nói rằng: Hoặc tất cả bảy mươi người con trai Giê-ru-ba-anh cai trị trên các ngươi, hoặc chỉ một người làm vua của các ngươi, điều nào là tốt hơn? Cũng hãy nhớ rằng ta đồng cốt nhục với các ngươi.
Sumulti ka, naghangyo ako kanimo, sa mga igdulungog sa tanang mga tawo sa Sichem, kong labi bang maayo alang kanimo nga ang tanang mga anak nga lalake ni Jerobaal, nga kapitoan ka tawo magahari kaninyo, kun usa ra ka tawo ang magahari kaninyo? Hinumdumi usab nga ako inyong bukog ug inyong unod.
3 Các cậu người nói giùm người, đem các lời nầy thuật lại cho hết thảy dân Si-chem nghe, và lòng chúng nghiêng về A-bi-mê-léc, vì chúng nói rằng: Người là anh em ta.
Ug ang mga kagisoonan sa iyang inahan naghisgut kaniya sa mga igdulungog sa tanang mga tawo sa Sichem niining mga pulonga: ug ang ilang mga kasingkasing nahilig sa pagsunod kang Abimelech; kay sila nanag-ingon: Siya atong igsoon.
4 Chúng bèn ban cho người bảy mươi miếng bạc của miếu Ba-anh-Bê-rít; A-bi-mê-léc lấy bạc đó mướn những kẻ bại hoại hoang đàng đi theo mình.
Ug gihatagan siya nila ug kapitoan ka buok nga salapi sa balay ni Baal-berith, nga tungod niini si Abimelech misuhol sa mga tawo nga walay pulos ug kawang, nga mingnunot kaniya.
5 Đoạn, người đi đến nhà cha mình tại Oùp-ra, và trên một hòn đá, giết các anh em mình, tức những con trai của Giê-ru-ba-anh, số là bảy mươi người. Chỉ một mình Giô-tham, con út của Giê-ru-ba-anh, còn sống, bởi vì chàng đã ẩn mình.
Ug miadto siya sa balay sa iyang amahan sa Ophra, ug iyang gipatay ang mga kaigsoonan ang mga anak nga lalake ni Jerobaal, nga kapitoan ka tawo sa ibabaw sa usa ka bato: apan si Jotham ang kamanghuran nga anak nga lalake ni Jerobaal, nahabilin; kay siya mitago man sa iyang kaugalingon.
6 Bấy giờ, hết thảy người Si-chem nhóm hiệp với cả họ Mi-lô, đi đến cây dẻ bộp bia-đá ở tại Si-chem, mà tôn A-bi-mê-léc làm vua.
Ug ang tanang tawo sa Sichem nanagkatigum sa ilang kaugalingon, ug ang tanang balay ni Millo, ug miadto ug naghimo kang Abimelech nga hari, tupad sa kahoy nga encina sa haliging kuta nga diha sa Sichem.
7 Giô-tham hay đặng điều đó, bèn đi lên đứng trên chót núi Ga-ri-xim, cất tiếng la rằng: Hỡi người Si-chem, hãy nghe ta, và nguyện Đức Chúa Trời nghe các ngươi!
Ug sa diha nga ilang gisugilon kini kang Jotham, siya miadto ug mitindog sa kinatumyan sa bukid sa Gerizim, ug mipatugbaw siya sa iyang tingog, ug misinggit, ug miingon kanila: Pamati kamo kanako, kamo nga mga tawo sa Sichem, aron ang Dios mamati kaninyo.
8 Các cây cối đều đi đặng xức dầu cho một vua cai trị chúng nó. Chúng nó nói cùng cây ô-li-ve rằng: Hãy cai trị chúng tôi.
Ang mga kahoy minggula sa usa ka panahon sa pagdihog ug usa ka hari sa ibabaw nila; ug sila miingon sa kahoy nga olivo: Maghari ka sa ibabaw namo.
9 Cây ô-li-ve đáp: Ta há sẽ bỏ dầu ta mà Đức Chúa Trời và loài người đều tôn vinh, đặng đi xao động trên các cây cối ư?
Apan ang kahoy nga olivo miingon kanila: Biyaan ko ba ang akong katambok, nga niana gitahod nila ang Dios ug ang tawo, ug moadto sa paglubaylubay ngadto-nganhi sa ibabaw sa mga kahoy?
10 Các cây cối lại nói cùng cây vả rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi.
Ug ang mga kahoy miingon sa higuera: Umari ka, ug maghari sa ibabaw namo.
11 Nhưng cây vả đáp rằng: Ta há sẽ bỏ sự ngọt ngon và trái tươi tốt ta đặng đi xao động trên các cây cối ư?
Apan ang higuera miingon kanila: Biyaan ko ba ang akong katam-is, ug ang akong maayong bunga ug magalubay-lubay ngadto-nganhi sa ibabaw sa mga kahoy?
12 Đoạn, các cây cối nói cùng cây nho rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi.
Ug ang mga kahoy miingon sa parras: Umari ka, ug maghari sa ibabaw namo.
13 Nhưng cây nho đáp: Ta há sẽ bỏ rượu ngon ta, là thứ làm cho vui Đức Chúa Trời và người ta, đặng đi xao động trên các cây cối ư?
Ug ang parras miingon kanila: Biyaan ko ba ang akong bag-ong vino, nga makalipay sa Dios ug sa tawo, ug moadto sa paglubay-lubay ngadto-nganhi sa ibabaw sa mga kahoy?
14 Bấy giờ, hết thảy cây cối nói cùng gai góc rằng: Hãy đến cai trị chúng tôi.
Unya miingon ang tanang mga kahoy sa sapinit: Umari ka, ug maghari sa ibabaw namo.
15 Gai góc đáp cùng các cây cối rằng: Nếu bởi lòng chân thật mà các ngươi muốn xức dầu ta làm vua các ngươi, thì hãy đến núp dưới bóng ta; bằng không, nguyện lửa ra từ gai và thiêu nuốt cây bá hương Li-ban đi!
Ug ang sapinit miingon sa mga kahoy: Kong sa pagkatinuod dihogon ako nga hari sa ibabaw ninyo, nan umari kamo ug pumasilong sa akong landong; ug kong dili, nan pagulaa ang kalayo gikan sa sapinit ug molamoy sa tanang kahoy nga cedro sa Libano.
16 Bây giờ, có phải các ngươi cư xử chân thật và công bình mà tôn A-bi-mê-léc làm vua chăng? Các ngươi có hậu đãi Giê-ru-ba-anh và nhà người chăng? Có báo đáp điều người đã làm cho các ngươi chăng?
Busa karon, kong nagbuhat kamo sa tinuod ug matarung, sa ingon niana nga naghimo kamo kang Abimelech nga hari, ug kong kamo nagbuhat sa alang kang Jerobaal ug sa iyang balay, ug nahimo kaniya sumala sa mga may katakus sa iyang mga kamot;
17 Vì cha ta có tranh chiến cho các ngươi, liều mình mà giải cứu các ngươi khỏi tay dân Ma-đi-an.
(Kay ang akong amahan nakig-away alang kaninyo, ug giasdang ang iyang kinabuhi, ug nagluwas kaninyo gikan sa kamot sa Madian:
18 Nhưng ngày nay các ngươi lại dấy lên cùng nhà cha ta, đã giết trên một hòn đá các con trai người, số là bảy mươi người, và lấy A-bi-mê-léc, con trai của con đòi người, mà tôn lên làm vua của dân Si-chem, vì hắn là anh em các ngươi.
Ug kamo nanindog batok sa balay sa akong amahan niining adlawa, ug nagpatay sa iyang mga anak nga lalake, kapitoan ka tawo sa ibabaw sa usa ka bato, ug nanaghimo kang Abimelech, ang anak nga lalake sa iyang sulogoon nga babaye, nga hari ibabaw sa mga tawo sa Sichem, tungod kay siya inyong igsoon nga lalake);
19 Vậy, ví bằng ngày nay các ngươi có lấy sự chân thật và chánh trực mà đãi Giê-ru-ba-anh và nhà người, thì A-bi-mê-léc khá vui mừng nơi các ngươi, và các ngươi hãy vui mừng nơi hắn!
Nan, kong kamo nanagbuhat sa minatuod ug minatarung alang kang Jerobaal, ug lakip sa iyang balay niining adlawa, nan managkalipay kamo kang Abimelech, ug palipaya siya usab diha kaninyo:
20 Bằng chẳng, nguyện lửa ra từ A-bi-mê-léc thiêu nuốt những người Si-chem cùng họ Mi-lô; và nguyện lửa ra từ những người Si-chem cùng họ Mi-lô mà thiêu nuốt A-bi-mê-léc!
Apan kong dili, ipagula ang kalayo gikan kang Abimelech, ug lamyon ang mga tawo sa Sichem, ug ang balay ni Millo; ug pagulaon ang kalayo gikan sa mga tawo sa Sichem, ug sa balay ni Millo, ug lamyon si Abimelech.
21 Đoạn, Giô-tham trốn, đi ẩn náu tại Bê-re, và ở đó, vì sợ A-bi-mê-léc, anh mình.
Ug si Jotham midalagan ug mikalagiw, ug miadto sa Beer, ug mipuyo didto, kay nahadlok kang Abimelech nga iyang igsoong lalake.
22 A-bi-mê-léc cai trị Y-sơ-ra-ên trong ba năm.
Ug si Abimelech nahimong principe ibabaw sa Israel tolo ka tuig.
23 Đoạn, Đức Chúa Trời sai đến một ác thần sanh sự bất bình giữa A-bi-mê-léc và người Si-chem; người Si-chem bèn phản nghịch A-bi-mê-léc,
Ug ang Dios nagpadala ug usa ka dautang espiritu sa taliwala ni Abimelech ug sa mga tawo sa Sichem; ug ang mga tawo sa Sichem nagmaluibon kang Abimelech:
24 để báo thù tội sát nhân đã phạm cùng bảy mươi con trai Giê-ru-ba-anh, và khiến huyết họ đổ lại trên A-bi-mê-léc, là anh đã giết họ, cùng đổ trên người Si-chem đã giúp hắn giết anh em mình.
Sa pagkaagi nga ang kapintas nga nahimo batok sa kapitoan ka anak ni Jerobaal mahiabut, ug ang ilang dugo mahulog sa ibabaw ni Abimelech nga ilang igsoon nga lalake, nga maoy nagpatay kanila, ug sa ibabaw sa mga tawo sa Sichem, nga nagpalig-on sa iyang kamot aron sa pagpatay sa iyang igsoon nga lalake.
25 Người Si-chem sai mấy kẻ đi rình rập người trên chót núi; chúng nó cướp giựt những kẻ đi qua đường gần bên chúng nó. A-bi-mê-léc hay được điều đó.
Ug ang mga tawo sa Sichem nagsugo ug mga magbabahig alang kaniya sa mga tumoy sa mga kabukiran, ug gitulis nila ang tanan nga nangagi niadtong dapita duol kanila: ug gisugilon kana kang Abimelech.
26 Bấy giờ, Ga-anh, con trai Ê-bết, cùng anh em mình đến vào trong Si-chem; người Si-chem đều để lòng tin cậy nơi người.
Ug si Gaal ang anak nga lalake ni Ebed miabut kuyog sa iyang mga igsoon, ug miadto sa Sichem; ug ang mga tawo sa Sichem naghatag sa ilang pagsalig kaniya.
27 Rồi chúng ra ngoài đồng, hái những vườn nho của mình, đạp trái nho, và dự tiệc yến. Đoạn, họ vào trong đền thờ của thần chúng, ăn và uống, rồi rủa sả A-bi-mê-léc.
Ug ming-adto sila sa kapatagan ug naghipos sa ilang mga parrasan, ug gipigsan ang mga parras, ug nanagfiesta, ug ming-adto sa balay sa ilang dios ug nangaon ug nanag-inum, ug nanagtunglo kang Abimelech.
28 Ga-anh, con trai Ê-bết, bèn nói rằng: A-bi-mê-léc là ai, Si-chem là chi mà chúng ta phục sự A-bi-mê-léc? Hắn há chẳng phải là con trai Giê-ru-ba-anh sao? Còn Xê-bun, há chẳng phải là kẻ phụ tá hắn ư? Các ngươi khá phục sự những người Hê-mô, là cha của Si-chem; còn chúng ta sao lại phục sự hắn?
Ug si Gaal ang anak nga lalake ni Ebed miingon: Kinsa ba si Abimelech, ug kinsa si Sichem, nga maga-alagad kita kaniya? Dili ba siya ang anak nga lalake ni Jerobaal? ug si Zebul ang iyang tinugyanan? Mag-alagad kamo sa mga tawo ni Hamor ang amahan ni Sichem: apan nganong magaalagad kita kaniya?
29 è! nếu ta có dân sự nầy dưới tay ta, ta sẽ đuổi A-bi-mê-léc đi! Đoạn, người nói cùng A-bi-mê-léc rằng: Hãy gia tăng quân lính ngươi mà ra trận!
Ug kong kining katawohan mahailalum pa unta sa akong kamot! unya papahawaon ko si Abimelech. Ug siya miingon kang Abimelech: Padaghanon mo ang imong kasundalohan, ug gumula.
30 Xê-bun, quan cai thành, nghe được các lời của Ga-anh, con trai Ê-bết nói, thì cơn giận người phừng lên,
Ug sa diha nga si Zebul ang punoan sa ciudad nakadungog sa mga pulong ni Gaal anak nga lalake ni Ebed, ang iyang kasuko misilaub.
31 mật sai sứ đến A-bi-mê-léc, mà nói rằng: Nầy Ga-anh, con trai Ê-bết, và anh em nó đã đến Si-chem, xui giục thành dấy nghịch cùng ông.
Ug nagpadala siya ug mga sulogoon ngadto kang Abimelech sa paagi nga malimbongon, nga nagaingon: Ania karon, si Gaal ang anak nga lalake ni Ebed ug ang iyang mga kaigsoonan ming-ari sa Sichem; ug ania karon, ilang gipugos ang ciudad sa pag-apil batok kanimo.
32 Vậy, đêm nay ông và các người theo ông phải chổi dậy, đi phục binh ngoài đồng.
Busa karon, sa ingon niini, bumangon ka sa gabii, ikaw ug ang katawohan nga anaa uban kanimo, ug magbanhig diha sa kaumahan:
33 Đến sáng mai khi mặt trời vừa mọc, ông phải dậy sớm, xông hãm thành. Khi Ga-anh và quân theo nó ra đánh ông, thì ông hãy tùy cơ mà làm.
Ug mahitabo, nga sa pagkabuntag, dihadiha sa pagsilang sa adlaw ikaw mobangon sa pagsayo ug sulongon ang ciudad, ug ania karon, sa diha nga siya ug ang katawohan nga anaa uban kaniya manggula batok kanimo, nan ikaw ang mahibalo sa imong buhaton kanila sumala sa kahigayonan nga imong makita.
34 Vậy, A-bi-mê-léc và cả đạo binh theo người đều chổi dậy ban đêm, chia ra làm bốn đội, và mai phục gần Si-chem.
Ug si Abimelech mibangon, ug ang tanang katawohan nga didto uban kaniya sa gabii, ug sila nanagbanhig batok kang Sichem sa upat ka mga panon.
35 Ga-anh, con trai Ê-bết, kéo ra và đứng tại cửa thành; A-bi-mê-léc và cả đạo binh theo người bèn đi ra khỏi nơi phục.
Ug si Gaal ang anak nga lalake ni Ebed migula, ug mitindog sa agianan sa ganghaan sa ciudad: ug si Abimelech mibangon, ug ang katawohan nga iyang uban gikan sa banhiganan.
36 Ga-anh thấy đạo binh ấy, nói cùng Xê-bun rằng: Ta thấy một đạo binh từ trên chót núi xuống. Xê-bun đáp: Ngươi thấy bóng núi mà tưởng là người ta đó chớ!
Ug sa pagkakita ni Gaal sa katawohan, siya miingon kang Zebul: Ania karon, adunay mga tawo nga nanlugsong gikan sa mga tumoy sa kabukiran. Ug si Zebul miingon kaniya: Ikaw nakakita sa mga anino sa mga bukid daw ingon sa mga tawo.
37 Nhưng Ga-anh lại tiếp rằng: Quả thật một cơ binh ở trên núi xuống, và một đội do đường cây dẻ bộp thuật sĩ mà đến.
Ug si Gaal misulti pag-usab ug miingon: Ania karon, adunay mga tawo nga nanglugsong duol sa taliwala sa yuta, ug usa ka panon nangagi duol sa kahoy nga encina sa Meonenim.
38 Xê-bun bèn la lên rằng: Chính ngươi đã nói: A-bi-mê-léc là ai mà ta phục sự hắn! Vậy, những lời khoe khoang của ngươi đó đã ra sao? Đó há chẳng phải đạo binh mà người khinh dể ư? Bây giờ, khá đi ra giao chiến cùng chúng nó!
Unya miingon si Zebul kaniya: Hain man karon ang imong baba nga miingon ka: Kinsa ba si Abimelech nga kita magaalagad kaniya? Dili ba kini mao ang katawohan nga imong gitamay? Gumula ka karon, ako nagahangyo, ug makig-away ka kanila,
39 Ga-anh bèn đứng đầu các người Si-chem, đi ra giao chiến cùng A-bi-mê-léc.
Ug si Gaal migula nga una sa mga tawo sa Sichem, ug nakig-away kang Abimelech.
40 Ga-anh bị A-bi-mê-léc đuổi theo, chạy trốn trước mặt người, và nhiều người bị thương ngã chết dọc đường, cho đến cửa thành.
Ug si Abimelech migukod kaniya, ug siya mikalagiw gikan sa iyang atubangan ug daghan nga nangapukan nga samaran bisan hangtud sa agianan sa ganghaan.
41 A-bi-mê-léc đi ở tại A-ru-ma. Còn Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em người đi, không cho ở tại Si-chem nữa.
Ug si Abimelech mipuyo sa Aruma: ug gipapahawa ni Zebul si Gaal ug ang iyang mga kaigsoonan, aron dili sila managpuyo sa Sichem.
42 Qua ngày sau, dân sự đi ra ngoài đồng, có người đem tin đó cho A-bi-mê-léc hay.
Ug nahitabo sa pagkabuntag nga ang katawohan miadto ngadto sa kapatagan; ug ilang gisuginlan si Abimelech.
43 Người bèn bắt cơ binh mình chia ra làm ba đội, để mai phục ngoài đồng. Khi thấy dân sự ở thành kéo ra, người liền chổi dậy và hãm đánh chúng nó.
Ug iyang gikuha ang katawohan, ug gibahin sila sa totolo ka panon, ug nanag-atang sa kapatagan; ug siya mitan-aw, ug ania karon ang katawohan migula sa ciudad: ug mitindog siya batok kanila ug midasmag kanila.
44 Đoạn A-bi-mê-léc và những kẻ đi theo lướt đến trước, dừng lại tại cửa thành; còn hai đội kia xông vào hết thảy người ở ngoài đồng, và đánh giết họ.
Ug si Abimelech, ug ang mga panon nga didto uban kaniya mingdasdas ug nanagtindog sa agianan sa ganghaan sa ciudad; ug ang duha ka panon mingdasdas sa tanan nga diha sa kapatagan ug gidaug sila.
45 A-bi-mê-léc hãm đánh thành trọn ngày, bèn chiếm lấy và giết hết thảy người ở trong, rồi phá thành và rắc muối ở đó.
Ug si Abimelech, nakig-away batok sa ciudad tibook nianang adlawa; ug nakuha niya ang ciudad, ug gipamatay ang katawohan nga diha sa sulod: ug iyang gigun-ob ang ciudad, ug gisabulakan kini ug asin.
46 Nghe tin nầy, hết thảy dân sự ở tháp Si-chem đều rút về trong đồn của miếu thần Bê-rít.
Ug sa diha nga ang tanang mga tawo sa torre sa Sichem nakadungog niini, didto sila mingsulod sa malig-on nga salipdanan sa balay ni El-berith.
47 Người ta đem tin cho A-bi-mê-léc hay rằng hết thảy dân sự tháp Si-chem đều hiệp lại tại trong đồn.
Ug sa gisugilon kini kang Abimelech nga ang tanang mga tawo sa torre sa Sichem nanaghiusa pagtapok.
48 A-bi-mê-léc bèn đi lên núi Sanh-môn với cả đạo binh theo mình. Người cầm lấy nơi tay một cái rìu chặt một nhánh cây, đỡ nó lên và vác trên vai; rồi nói cùng quân theo mình rằng: Các ngươi có thấy điều ta làm chăng? Hãy mau mau làm như ta.
Ug si Abimelech miadto sa bukid sa Salmon, siya ug ang tanang mga tawo nga didto uban kaniya; ug si Abimelech midala ug usa ka wasay, ug miputol ug usa ka sanga sa mga kahoy, ug gikuha niya ug gibutang sa iyang abaga: ug siya miingon sa katawohan nga didto uban kaniya: Unsay inyong nakita nga akong gibuhat, pagdali, ug buhata sumala sa akong gibuhat.
49 Vậy, mỗi người chặt một nhánh cây, rồi đi theo A-bi-mê-léc. Họ dựng sắp nhánh cây đó nơi đồn, châm lửa vào, và thiêu đồn cùng những người ở trong. Như vậy hết thảy những người ở tháp Si-chem, nam và nữ, đều chết, số ước một ngàn.
Ug ang tibook katawohan usab nanagputol ang tagsatagsa sa iyang palongpong ug minunot kang Abimelech, ug ilang gibutang kini sa salipdanan ug gidauban ang salipdanan; busa ang tanang tawo sa torre sa Sichem nangamatay usab, duol sa usa ka libo ka lalake ug babaye.
50 A-bi-mê-léc liền đi đánh Thê-bết, vây và chiếm lấy nó.
Unya miadto si Abimelech sa Thebes, ug nagpahaluna batok sa Thebes ug nakuha kini.
51 Giữa thành phố có một cái tháp vững bền, hết thảy dân sự của thành, nam và nữ, đều chạy vô núp tại đó, và đóng cửa lại, rồi lên trên đỉnh tháp.
Apan may usa ka malig-on nga torre sulod sa ciudad, ug didto nangalagiw ang tanang mga lalake ug babaye, ug silang tanan sa ciudad ug nanagsira sila didto sa sulod, ug nangadto sila sa atop sa torre.
52 A-bi-mê-léc tấn tới tháp, xông hãm nó, và đi lại gần cửa đặng phóng hỏa.
Ug si Abimelech miadto sa torre, ug nakig-away batok niana ug miduol dapit sa pultahan aron sa pagsunog niana sa kalayo.
53 Nhưng một người nữ ném thớt cối trên đầu A-bi-mê-léc làm bể sọ người.
Ug may usa ka babaye nga mihulog ug usa ka bato sa galingan sa ulo ni Abimelech, ug nabuak ang iyang bagolbagol.
54 Người liền kêu gã trai trẻ cầm binh khí hầu mình, mà nói rằng: Hãy rút gươm ngươi ra giết ta đi, kẻo người ta nói: một người đàn bà đã giết người! Vậy, gã trai trẻ bèn đâm người, thì người chết.
Diha-diha gitawag niya ang batan-ong lalake nga magdadala sa iyang hinagiban ug miingon: Ibta ang imong pinuti, ug patya ako, aron ang mga tawo dili mosulti mahitungod kanako: Usa ka babaye ang nagpatay kaniya. Ug ang iyang batan-ong lalake midunggab kaniya, ug namatay siya.
55 Khi người Y-sơ-ra-ên thấy A-bi-mê-léc đã chết, thì mỗi người đi về nhà mình.
Ug sa diha nga ang mga tawo sa Israel nakakita nga si Abimelech namatay na, sila namahawa ang tagsatagsa ngadto sa iyang dapit.
56 Như vậy, Đức Chúa Trời báo ứng A-bi-mê-léc vì tội ác hắn đã phạm cùng cha mình mà giết bảy mươi người anh em mình.
Sa ingon niini, ang Dios nagbalus sa pagkadautan ni Abimelech nga iyang gibuhat sa iyang amahan sa pagpatay sa iyang kapitoan ka mga igsoon;
57 Đức Chúa Trời cũng báo ứng dân Si-chem vì mọi điều ác mà chúng nó làm. Sự rủa sả của Giô-tham, con trai Giê-ru-ba-anh, ứng nghiệm trên chúng nó là như vậy.
Ug ang tanang pagkadautan sa mga tawo sa Sichem gibalusan sa Dios sa ibabaw sa ilang mga ulo, ug kanila midangat ang pagtunglo ni Jotham ang anak nga lalake ni Jerobaal.