< Giê-rê-mi-a 32 >
1 Năm thứ mười về đời vua Sê-đê-kia nước Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán cho Giê-rê-mi. Aáy là năm thứ mười tám về đời vua Nê-bu-cát-nết-sa.
Yǝⱨuda padixaⱨi Zǝdǝkiyaning oninqi yili, Yǝrǝmiyaƣa Pǝrwǝrdigardin kǝlgǝn sɵz tɵwǝndǝ hatirilǝngǝn (xu yil Neboⱪadnǝsarning on sǝkkizinqi yili idi;
2 Bấy giờ đạo binh của vua Ba-by-lôn vây thành Giê-ru-sa-lem; còn tiên tri Giê-rê-mi thì đã bị giam nơi hành lang lính canh trong cung vua Giu-đa.
Xu qaƣda Babil padixaⱨining ⱪoxuni Yerusalemni ⱪorxuwalƣanidi; Yǝrǝmiya pǝyƣǝmbǝr bolsa Yǝⱨuda padixaⱨining ordisidiki ⱪarawullarning ⱨoylisida ⱪamap ⱪoyulƣanidi.
3 Vì Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã giam người, nói rằng: Làm sao ngươi nói tiên tri rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ phó thành nầy vào tay vua Ba-by-lôn, người sẽ chiếm lấy;
Qünki Yǝⱨuda padixaⱨi Zǝdǝkiya uni ǝyiblǝp: «Nemixⱪa sǝn: «Mana, Mǝn bu xǝⱨǝrni Babil padixaⱨining ⱪoliƣa tapxurimǝn; u uni ixƣal ⱪilidu; Yǝⱨuda padixaⱨi Zǝdǝkiya kaldiylǝrning ⱪolidin ⱪeqip ⱪutulalmaydu; qünki u Babil padixaⱨining ⱪoliƣa tapxurulmay ⱪalmaydu; u uning bilǝn yüz turanǝ sɵzlixidu, ɵz kɵzi bilǝn uning kɵzigǝ ⱪaraydu. U Zǝdǝkiyani Babilƣa apiridu, u mǝn uningƣa yeⱪinlixip toluⱪ bir tǝrǝp ⱪilƣuqǝ xu yǝrdǝ turidu, dǝydu Pǝrwǝrdigar; silǝr kaldiylǝr bilǝn ⱪarxilaxsanglarmu ƣǝlibǝ ⱪilalmaysilǝr! — dǝydu Pǝrwǝrdigar» — dǝp bexarǝt berisǝn?» — dǝp uni ⱪamap ⱪoyƣanidi).
4 Sê-đê-kia, vua Giu-đa, sẽ chẳng tránh khỏi tay người Canh-đê, nhưng chắc sẽ bị nộp trong tay vua Ba-by-lôn, sẽ nói cùng vua ấy miệng đối miệng, mắt nhìn mắt;
5 vua ấy sẽ bắt Sê-đê-kia về Ba-by-lôn, người sẽ ở đó cho đến chừng nào ta thăm viếng nó, Đức Giê-hô-va phán vậy; các ngươi dầu đánh với người Canh-đê sẽ chẳng được may mắn?
6 Giê-rê-mi nói: Có lời của Đức Giê-hô-va phán cho tôi rằng:
Yǝrǝmiya: — Pǝrwǝrdigarning sɵzi manga kelip mundaⱪ deyildi — dedi: —
7 Nầy, Ha-na-mê-ên, con trai Sa-lum chú ngươi, sẽ đến nơi ngươi mà nói rằng: Hãy mua ruộng của ta tại A-na-tốt; vì ngươi có phép chuộc để mua lấy.
Mana, taƣang Xallumning oƣli Ⱨanamǝǝl yeningƣa kelip: «Ɵzüng üqün Anatottiki etizimni setiwal; qünki uni setiwelixⱪa sening ⱨǝmjǝmǝtlik ⱨoⱪuⱪung bar» — dǝydiƣan bolidu.
8 Ha-na-mê-ên, con trai chú tôi, bèn theo lời Đức Giê-hô-va, đến thăm tôi trong hành lang lính canh, và nói rằng: Ta xin ngươi hãy mua ruộng của ta ở A-na-tốt, trong đất Bên-gia-min, vì ngươi có phép hưởng gia tài và chuộc lấy, khá mua lấy cho mình. Bấy giờ tôi nhìn biết rằng ấy là lời của Đức Giê-hô-va.
Andin Pǝrwǝrdigarning deginidǝk taƣamning oƣli Ⱨanamǝǝl, ⱪarawullarning ⱨoylisida yenimƣa kelip manga: «Binyaminning zeminidiki mening Anatottiki etizimni setiwalƣaysǝn; qünki ⱨǝmjǝmǝt ⱨoⱪuⱪi seningkidur; ɵzüng üqün setiwal» — dedi; andin mǝn buning ⱨǝⱪiⱪǝtǝn Pǝrwǝrdigarning sɵzi ikǝnlikini bilip yǝttim.
9 Vậy tôi mua ruộng ở A-na-tốt của Ha-na-mê-ên, con trai chú tôi, và tôi cân mười bảy siếc-lơ bạc cho người.
Xunga mǝn taƣamning oƣli Ⱨanamǝǝldin Anatottiki bu etizni setiwaldim; pulni, yǝni on yǝttǝ xǝkǝl kümüxni girgǝ selip ɵlqidim.
10 Tôi viết khế và niêm phong, mời người làm chứng và cân bạc trong cái cân.
Mǝn tohtam hetigǝ imza ⱪoyup, üstigǝ mɵⱨürni besip peqǝtlidim; buningƣa guwaⱨqilarni guwaⱨ bǝrgüzdum, kümüxni taraziƣa saldim;
11 Tôi liền lấy tờ khế bán, cả khế đã niêm phong theo lề luật và thói tục, và khế để ngỏ nữa.
tohtam hetini ⱪolumƣa aldim, — birsidǝ soda tüzümi wǝ xǝrtliri hatirilinip peqǝtlǝngǝn, yǝnǝ birsi peqǝtlǝnmigǝnidi —
12 Tôi trao khế mua cho Ba-rúc, con trai Nê-ri-gia, cháu Ma-a-sê-gia, trước mặt Ha-na-mê-ên, con trai chú tôi, và trước mặt những kẻ làm chứng có ký tên vào khế nữa, cũng ở trước mặt mọi người Giu-đa đang ngồi trong hành lang lính canh.
wǝ mǝn taƣamning oƣli Ⱨanamǝǝlning kɵz aldida, bu soda hetigǝ imza ⱪoyƣan guwaⱨqilar wǝ ⱪarawullarning ⱨoylisida olturƣan Yǝⱨudiylarning ⱨǝmmisi aldida hǝtlǝrni Maaseyaⱨning nǝwrisi, Neriyaning oƣli bolƣan Baruⱪⱪa tapxurdum.
13 Đoạn, tại trước mặt họ tôi dặn Ba-rúc rằng:
Ularning aldida mǝn Baruⱪⱪa mundaⱪ tapilap dedim: —
14 Đức Giê-hô-va vạn quân Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy lấy những tờ khế nầy, khế mua niêm phong, và khế để ngỏ, và để trong một cái bình đất, đặng những tờ khế ấy còn được lâu ngày.
Samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigar — Israilning Hudasi mundaⱪ dǝydu: — Bu hǝtlǝrni, yǝni peqǝtlǝngǝn wǝ peqǝtlǝnmigǝn bu tohtam hǝtlirini elip, bular uzun waⱪitⱪiqǝ saⱪlansun dǝp sapal idix iqigǝ salƣin;
15 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Người ta sẽ còn mua nhà, ruộng, và vườn nho trong đất nầy.
Qünki samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigar — Israilning Hudasi mundaⱪ dǝydu: — Kǝlgüsidǝ bu zeminda ⱨǝm ɵylǝr, ⱨǝm etizlar, ⱨǝm üzümzarlar ⱪaytidin setiwelinidu.
16 Khi tôi đã trao tờ khế mua cho Ba-rúc, con trai Nê-ri-gia, thì tôi cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va rằng:
Mǝn tohtam hetini Neriyaning oƣli bolƣan Baruⱪⱪa tapxurƣandin keyin, Pǝrwǝrdigarƣa dua ⱪilip mundaⱪ dedim: —
17 Oâi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Chính Ngài đã dùng quyền phép lớn và cánh tay giơ ra mà làm nên trời và đất; chẳng có sự gì là khó quá cho Ngài cả.
«Aⱨ, Rǝb Pǝrwǝrdigar! Mana, Sǝn asman-zeminni Ɵzüngning zor ⱪudriting wǝ sozulƣan biliking bilǝn yasiƣansǝn; Sanga ⱨeqⱪandaⱪ ix tǝs ǝmǝstur;
18 Ngài to sự thương xót ra cho muôn vàn, báo trả sự gian ác ông cha vào mình con cháu nối sau. Ngài là Đức Chúa Trời lớn, là Đấng toàn năng, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân.
Sǝn mingliƣan kixilǝrgǝ rǝⱨim-xǝpⱪǝt kɵrsitisǝn ⱨǝmdǝ atilarning ⱪǝbiⱨlikining jazasinimu keyin balilirining ⱪoyniƣa ⱪayturisǝn; aⱨ Sǝn uluƣ, Ⱪudrǝt Igisi Tǝngridursǝn — Samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigar Sening namingdur;
19 Mưu mô Ngài lớn lao, và công việc thì có phép tắc. Mắt Ngài mở soi trên mọi đường lối con trai loài người, đặng báo cho mỗi người theo đường lối nó, và theo quả của việc làm.
oy-nixanliringda uluƣ, ⱪilƣan ixliringda ⱪudrǝtliksǝn; kɵzliring bilǝn insan balilirining ɵz yolliri wǝ ⱪilƣanlirining mewisi boyiqǝ ⱨǝrbirigǝ [inam yaki jaza] ⱪayturux üqün, ularning barliⱪ yollirini kɵzligüqidursǝn;
20 Ngài đã làm nên những dấu lại sự lạ trong đất Ê-díp-tô, cho đến ngày nay, trong Y-sơ-ra-ên cũng như trong những người khác, Ngài đã được danh tiếng như mình hiện có.
— Sǝn bügünki küngiqǝ Misir zeminida, Israil iqidǝ ⱨǝm barliⱪ insanlar arisida mɵjizilik alamǝtlǝrni ⱨǝm karamǝtlǝrni ayan ⱪilip kǝlgǝnsǝn; xunglaxⱪa bügüngiqǝ Sening naming eƣizdin-eƣizƣa tarⱪilip kǝlmǝktǝ.
21 Ngài đã dùng dấu lạ, sự lạ, tay mạnh, và cánh tay giơ ra cùng sự kinh khiếp lớn mà đem dân Y-sơ-ra-ên mình ra khỏi đất Ê-díp-tô.
Sǝn mɵjizilik alamǝtlǝr, karamǝtlǝr ⱪudrǝtlik ⱪolung, sozulƣan biliking wǝ dǝⱨxǝtlik wǝⱨxǝt arⱪiliⱪ Ɵz hǝlⱪing Israilni Misir zeminidin qiⱪarƣansǝn;
22 Ngài ban cho họ đất nầy, là đất đượm sữa và mật, mà Ngài đã thề ban cho tổ phụ họ xưa kia.
Sǝn ularƣa ata-bowiliriƣa tǝⱪdim ⱪilimǝn dǝp ⱪǝsǝm ⱪilƣan, süt ⱨǝm bal eⱪip turidiƣan bu zeminni tǝⱪdim ⱪilƣansǝn.
23 Họ đã vào lấy đất nầy làm sản nghiệp, nhưng không vâng theo tiếng Ngài, không bước theo luật Ngài, chẳng hề làm một điều gì về mọi sự mà Ngài đã dặn phải làm. Vì vậy Ngài đã giáng mọi tai vạ nầy trên họ.
Ular dǝrwǝⱪǝ zeminƣa kirip uningƣa igǝ bolƣan; lekin ular Sening awazingƣa ⱪulaⱪ salmiƣan, Tǝwrat-ⱪanunungda mangmiƣan; ularƣa ǝmr ⱪilƣanlarning ⱨeqⱪaysisiƣa ǝmǝl ⱪilmiƣan; xunga Sǝn bu külpǝtlǝrning ⱨǝmmisini ularning bexiƣa qüxürgǝnsǝn.
24 Nầy, những đồn lũy! chúng nó đã bước tới thành, để chiếm lấy nó. Vì cớ gươm dao, đói kém, ôn dịch, nên thành bị nộp trong tay người Canh-đê đang tranh chiến với nó. Điều Ngài phán thì đã xảy đến, và nầy, Ngài thấy!
Mana, xǝⱨǝrni besip kirix üqün sepilƣa selip qiⱪirilƣan dɵnglük-potǝylǝrgǝ ⱪariƣaysǝn! Ⱪiliq, ⱪǝⱨǝtqilik wǝ waba tüpǝylidin xǝⱨǝr ⱨujum ⱪiliwatⱪan kaldiylǝrning ⱪoliƣa tapxurulmay ⱪalmaydu; Sǝn aldin’ala eytⱪining ⱨazir ǝmǝlgǝ axuruldi; mana, Ɵzüng kɵrisǝn.
25 Hỡi Chúa Giê-hô-va, Ngài đã phán cùng tôi rằng: Hãy dùng giá bạc mua ruộng nầy, và mời những người làm chứng. Mà kìa, thành đã nộp trong tay người Canh-đê!
Lekin Sǝn, i Rǝb Pǝrwǝrdigar, gǝrqǝ xǝⱨǝr kaldiylǝrning ⱪoliƣa tapxurulidiƣan bolsimu, manga: «Ɵzüng üqün etizni kümüxkǝ setiwal wǝ buni guwaⱨqilarƣa kɵrgüzgin!?» — deding».
26 Có lời Đức Giê-hô-va được phán cho Giê-rê-mi như vầy:
Andin Pǝrwǝrdigarning sɵzi Yǝrǝmiyaƣa kelip mundaⱪ deyildi: —
27 Nầy, ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của mọi xác thịt; có sự gì khó quá cho ta chăng?
Mana, Mǝn Pǝrwǝrdigar, barliⱪ ǝt igilirining Hudasidurmǝn; Manga tǝs qüxidiƣan birǝr ix barmidu?
28 Vậy nên, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ phó thành nầy vào tay người Canh-đê, vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, người sẽ chiếm lấy.
Xunga Pǝrwǝrdigar mundaⱪ dǝydu: — Mana, Mǝn bu xǝⱨǝrni kaldiylǝrning ⱪoliƣa wǝ Babil padixaⱨi Neboⱪadnǝsarning ⱪoliƣa tapxurimǝn; ular uni igiliwalidu.
29 Những người Canh-đê đang đánh thành nầy thì sẽ đến, đặt lửa và đốt đi, đốt luôn những nhà mà người ta dâng hương cho Ba-anh tại trên mái, và làm lễ quán cho các thần khác, đặng chọc giận ta.
Bu xǝⱨǝrgǝ ⱨujum ⱪiliwatⱪan kaldiylǝr uningƣa besip kirip ot ⱪoyup uni kɵydüriwetidu; ular xǝⱨǝrdikilǝrning ɵylirinimu kɵydüriwetidu; ular bu ɵylǝrning ɵgziliri üstidǝ Meni ƣǝzǝplǝndürüp Baalƣa isriⱪ yaⱪⱪan, yat ilaⱨlarƣa «xarab ⱨǝdiyǝ»lǝrni ⱪuyƣan.
30 Vả, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa, từ thuở còn trẻ, chỉ làm điều dữ trước mặt ta; vì con cái Y-sơ-ra-ên chỉ lấy việc làm của tay mình mà chọc giận ta, Đức Giê-hô-va phán vậy.
Qünki Israillar wǝ Yǝⱨudalar yaxliⱪidin tartip kɵz aldimda pǝⱪǝt rǝzillikla ⱪilip kǝlmǝktǝ; Israillar pǝⱪǝtla ɵz ⱪolliri yasiƣanlar bilǝn ƣǝzipimni ⱪozƣiƣandin baxⱪa ix ⱪilmiƣan, — dǝydu Pǝrwǝrdigar.
31 Thành nầy đã làm cớ cho ta giận và tức, từ ngày đã xây lên cho đến ngày nay. Vậy nên, ta muốn cất nó đi khỏi trước mặt ta,
Qünki bu xǝⱨǝr ⱪurulƣan künidin tartip bügünki küngiqǝ Mening ƣǝzipim wǝ ⱪǝⱨrimni xundaⱪ ⱪozƣiƣuqi bolup kǝldiki, Mǝn uni Ɵz yüzüm aldidin yoⱪatmisam bolmaydu.
32 vì cớ mọi điều ác mà con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa đã làm đặng chọc giận ta, chúng nó, vua, quan trưởng, thầy tế lễ, kẻ tiên tri chúng nó, người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem nữa.
Israillar wǝ Yǝⱨudalar — ular wǝ ularning padixaⱨliri, ǝmirliri kaⱨinliri, pǝyƣǝmbǝrliri, Yǝⱨuda adǝmliri wǝ Yerusalemda turuwatⱪanlarning meni ƣǝzǝplǝndürgǝn barliⱪ rǝzilliki tüpǝylidin [xǝⱨǝrni yoⱪitimǝn].
33 Chúng nó không xây mặt lại ta, trở xây lưng lại. Dầu ta đã dạy chúng nó, dậy sớm mà răn bảo, nhưng chúng nó không nghe, chẳng nhận sự dạy dỗ.
Ular Manga yüzini ⱪaratⱪan ǝmǝs, bǝlki Manga arⱪisini ⱪilip tǝtür ⱪariƣan; gǝrqǝ Mǝn tang sǝⱨǝrdǝ ornumdin turup ularƣa ɵgǝtkǝn bolsammu, ular anglimay tǝlim-tǝrbiyini ⱪobul ⱪilixni rǝt ⱪilƣan.
34 Chúng nó đã để những vật gớm ghiếc trong nhà được xưng bởi danh ta, để làm cho ô uế.
Ular Ɵz namim bilǝn atalƣan ɵydǝ yirginqlik butlirini selip uni bulƣiƣan;
35 Chúng nó đã xây các nơi cao của Ba-anh trong nơi trũng con trai Hi-nôm, khiến con trai con gái mình qua lửa, dâng cho Mô-lóc, là điều ta không truyền dạy; ta chẳng hề nghĩ đến rằng chúng nó có thể phạm một sự gớm ghiếc dường ấy mà làm cho Giu-đa phạm tội.
ular ɵz oƣul-ⱪizlirini ottin ɵtküzüp «Molǝk»kǝ atap ⱪurbanliⱪ ⱪilix üqün «Ⱨinnomning oƣlining jilƣisi»diki, Baalƣa beƣixlanƣan «yuⱪiri jaylar»ni ⱪurup qiⱪⱪan; Mǝn ularning bundaⱪ ix ⱪilixini zadi buyrup baⱪmiƣanmǝn; ularning Yǝⱨudani gunaⱨⱪa patⱪuzup, muxundaⱪ lǝnǝtlik ix ⱪilsun degǝn oy-niyǝttǝ ⱨeqⱪaqan bolup baⱪmiƣanmǝn.
36 Nên bấy giờ, về thành nầy, mà các ngươi nói rằng nó đã phó trong tay vua Ba-by-lôn bởi gươm dao, đói kém, ôn dịch, thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:
Silǝr muxu xǝⱨǝr toƣruluⱪ: «Dǝrⱨǝⱪiⱪǝt, u ⱪiliq, ⱪǝⱨǝtqilik wǝ waba arⱪiliⱪ Babil padixaⱨining ⱪoliƣa tapxurulidu!» — dǝwatisilǝr; lekin Pǝrwǝrdigar — Israilning Hudasi muxu xǝⱨǝr toƣruluⱪ ⱨazir mundaⱪ dǝydu: —
37 Nầy, ta sẽ thâu nhóm chúng nó từ mọi nước mà ta đã nhân giận, thạnh nộ, tức mình quá mà đuổi chúng nó đến; ta sẽ đem chúng nó về trong chỗ nầy, khiến chúng nó ở yên ổn.
Mana Mǝn, Mǝn ularni ƣǝzipim, ⱪǝⱨrim wǝ zor aqqiⱪim bilǝn ⱨǝydiwǝtkǝn barliⱪ padixaⱨliⱪlardin yiƣimǝn; Mǝn ularni ⱪaytidin muxu yǝrgǝ epkelimǝn, ularni aman-tinqliⱪta turƣuzimǝn.
38 Chúng nó sẽ làm dân ta, và ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó.
Ular Mening hǝlⱪim bolidu, Mǝn ularning Hudasi bolimǝn.
39 Ta sẽ ban cho chúng nó một lòng một đường lối như nhau, hầu cho kính sợ ta đời đời, để chúng nó và con cháu nối sau đều được phước.
Mǝn ular wǝ ulardin keyin bolƣan balilirini barliⱪ künliridǝ Mǝndin ǝyminip yahxiliⱪ kɵrsun dǝp, ularƣa bir ⱪǝlb, bir yolni ata ⱪilimǝn.
40 Ta sẽ lập giao ước đời đời với chúng nó rằng: ta sẽ không xây khỏi chúng nó để làm phước cho; và ta sẽ đặt sự kính sợ ta vào lòng, để chúng nó không còn lìa khỏi ta.
Mǝn ularƣa iltipat ⱪilixtin ⱪolumni ikkinqi üzmǝslikim üqün ular bilǝn mǝnggülük bir ǝⱨdǝ tüzimǝn; ularning ⱪaytidin yenimdin qǝtlimǝsliki üqün Mǝn ⱪǝlbigǝ ⱪorⱪunqumni salimǝn.
41 Ta sẽ lấy làm vui mà làm phước cho, và chắc hết lòng hết linh hồn trồng chúng nó trong đất nầy.
Mǝn ularƣa yahxiliⱪ ata ⱪilixtin ⱨuzur elip xadlinimǝn wǝ pütün ⱪǝlbim, pütün jenim bilǝn ularni muxu zeminƣa tikip turƣuzimǝn!
42 Đức Giê-hô-va phán: Như ta đã giáng mọi tai vạ lớn trên dân nầy, ta cũng sẽ giáng cho mọi sự lành ta đã hứa.
Qünki Pǝrwǝrdigar mundaⱪ dǝydu: — Mǝn huddi bu hǝlⱪning bexiƣa bu dǝⱨxǝtlik külpǝtning ⱨǝmmisini qüxürginimdǝk, Mǝn ular toƣruluⱪ wǝdǝ ⱪilƣan barliⱪ bǝht-bǝrikǝtlǝrni ularning üstigǝ qüxürimǝn;
43 Người ta sẽ mua ruộng trong đất nầy mà các ngươi nói rằng: Aáy là một nơi hoang vu, không có loài người, cũng không có loài thú, đã bị nộp trong tay người Canh-đê.
Silǝr muxu zemin toƣruluⱪ: «U wǝyranǝ, adǝmzatsiz wǝ ⱨaywanatsizdur; kaldiylǝrning ⱪoliƣa tapxurulƣan!» dǝysilǝr. Lekin kǝlgüsidǝ uningda etizlar ⱪaytidin setiwelinidu!
44 Người ta sẽ dùng giá bạc mua ruộng tại đó, viết khế bán, niêm phong lại, mời người làm chứng, trong đất Bên-gia-min và chung quanh Giê-ru-sa-lem, trong các thành Giu-đa và trong các thành miền núi, trong các thành đồng bằng và các thành phương nam. Vì ta sẽ khiến những phu tù trở về, Đức Giê-hô-va phán vậy.
Binyaminning yurtida, Yerusalemning ǝtrapidiki yezilirida, Yǝⱨudaning xǝⱨǝrliridǝ, [jǝnubtiki] taƣliⱪ xǝⱨǝrliridǝ, ƣǝrbtiki «Xǝfǝlaⱨ» egizlikidiki xǝⱨǝrlǝrdǝ, [Yǝⱨudaning] jǝnubiy bayawanliridiki xǝⱨǝrlǝrdimu kixilǝr ⱪaytidin kümüxkǝ etizlarni setiwalidu, tohtam hǝtlirigǝ imza ⱪoyidu, mɵⱨürlǝp, guwaⱨqilarni guwaⱨⱪa ⱨazir ⱪilidu; qünki Mǝn ularni sürgünlüktin ⱪayturup ǝsligǝ kǝltürimǝn — dǝydu Pǝrwǝrdigar.