< Sáng Thế 31 >

1 Gia-cốp được nghe lời các con La-ban nói rằng: Gia-cốp đã lấy hết gia tài cha ta, và vì nhờ của cha ta, nên mới được giàu có dường ấy.
Əmma Yaⱪup Labanning oƣullirining: — Yaⱪup atimizning pütün mal-mülkini elip kǝtti; uning erixkǝn bu dɵliti atimizning tǝǝlluⱪatidin kǝlgǝn, deginini anglap ⱪaldi.
2 Gia-cốp cũng để ý coi nét mặt cậu, nhận biết rằng người chẳng đối ở với mình như trước nữa.
Yaⱪup Labanning qirayiƣa ⱪariwidi, mana, u ɵzigǝ burunⱪidǝk hux peil bolmidi.
3 Đức Giê-hô-va phán cùng Gia-cốp rằng: Hãy trở về xứ của tổ phụ ngươi, chốn bà con ngươi, ta sẽ phù hộ ngươi.
Bu qaƣda, Pǝrwǝrdigar Yaⱪupⱪa: — Sǝn ata-bowiliringning zeminiƣa, ɵz uruⱪ-tuƣⱪanliringning ⱪexiƣa ⱪaytip kǝtkin. Mǝn sening bilǝn billǝ bolimǝn, — dedi.
4 Gia-cốp bèn sai người gọi Ra-chên và Lê-a đến nơi cầm bầy súc vật của mình ngoài đồng,
Xuning üqün Yaⱪup adǝm ǝwǝtip, Raⱨilǝ wǝ Leyaⱨni ɵz padisi turƣan kɵklǝmgǝ qaⱪirip kelip
5 và nói cùng họ rằng: Ta thấy sắc mặt cha hai ngươi đối cùng ta chẳng còn như trước nữa, nhưng nhờ Đức Chúa Trời của cha ta phù hộ ta.
ularƣa mundaⱪ dedi: — Mǝn atanglarning qirayiƣa ⱪarisam manga burunⱪidǝk hux peil bolmidi; ǝmma atamning Hudasi mǝn bilǝn billǝ bolup kǝldi.
6 Chính hai ngươi cũng biết rằng ta đã giúp cha hai ngươi hết sức,
Küqümning yetixiqǝ atanglarƣa ixlǝp bǝrginim silǝrgǝ ayan;
7 còn cha hai ngươi lại khinh bạc và mười lần thay đổi công giá ta; nhưng Đức Chúa Trời không cho phép người làm hại ta chút nào.
ⱨalbuki, atanglar meni ǝhmǝⱪ ⱪilip, ⱨǝⱪⱪimni on ⱪetim ɵzgǝrtti; lekin Huda uning manga ziyan yǝtküzüxigǝ yol ⱪoymidi.
8 Khi người dạy rằng: Các con chiên có đốm dùng làm công giá ngươi, quả các con chiên đều sanh con ra có đốm. Còn nếu dạy rằng: Các con chiên có sọc dùng làm công giá ngươi, quả các con chiên đều sanh ra có sọc.
Əgǝr u: «Ala-qipar ⱪozilar ⱨǝⱪⱪing bolidu», desǝ, barliⱪ padilar ala-qipar ⱪoziliƣili turdi. U: «Taƣil ⱪozilar ⱨǝⱪⱪing bolsun», desǝ, barliⱪ padilar taƣil ⱪoziliƣili turdi.
9 Thế thì, Đức Chúa Trời đã bắt súc vật của cha hai ngươi cho ta đó!
Bu tǝriⱪidǝ Huda atanglarning mallirini tartiwelip, manga bǝrdi.
10 Đang trong lúc chiên giao hiệp nhau, ta nhướng mắt lên, chiêm bao thấy các chiên đực đang giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm.
Padilar küyligǝn waⱪitta mǝn bir ⱪetim qüxümdǝ beximni kɵtürüp xuni kɵrdumki, mana, mallarning üstigǝ jüplixixkǝ etilƣan ⱪoqⱪar-tekilǝrning ⱨǝmmisi taƣil yaki ala-qipar idi.
11 Thiên sứ Đức Chúa Trời phán cùng ta trong mộng rằng: Hãy Gia-cốp! Ta bèn thưa: Có tôi đây.
Andin Hudaning Pǝrixtisi qüxümdǝ manga: «Əy Yaⱪup», dewidi, mǝn jawab berip: «Mana mǝn», dedim.
12 Thiên sứ rằng: Hãy nhướng mắt lên mà nhìn: hết thảy chiên đực đang giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm; vì ta đã thấy cách La-ban ăn ở cùng ngươi rồi.
U manga: — «Əmdi bexingni kɵtürüp ⱪariƣin; mana mallarning üstigǝ jüplixixkǝ etilƣan ⱪoqⱪar-tekilǝrning ⱨǝmmisi taƣil wǝ ala-qipardur; qünki Mǝn Labanning sanga ⱪilƣinining ⱨǝmmisini kɵrdüm.
13 Ta đây là Đức Chúa Trời của Bê-tên, tức nơi ngươi đã thoa dầu đầu cây trụ và đã khấn vái ta. Bây giờ, hãy đứng dậy, ra khỏi xứ nầy và trở về xứ của bà con ngươi.
Mǝn Bǝyt-Əldǝ [sanga kɵrüngǝn] Tǝngridurmǝn. Sǝn xu yǝrdǝ tüwrükni mǝsiⱨlǝp, Manga ⱪǝsǝm iqting. Əmdi sǝn orningdin turup, bu zemindin qiⱪip, uruⱪ-tuƣⱪanliringning zeminiƣa yanƣin» dedi.
14 Ra-chên và Lê-a đáp cùng người mà rằng: Chúng tôi còn một phần chi hay là cơ nghiệp chi nơi nhà cha chúng tôi chăng?
Raⱨilǝ wǝ Leyaⱨ uningƣa jawab berip: — Atimizning ɵyidǝ bizgǝ tegixlik nesiwǝ yaki miras ⱪalmiƣanmu?
15 Vì người đã gả bán chúng tôi và ăn xài hết tiền bạc bán nữa, há người chẳng đãi chúng tôi như người dưng ư?
Biz dǝrwǝⱪǝ uningƣa yat adǝm ⱨesablinip ⱪalƣanmu?! U bizni setiwǝtti, toyluⱪimiznimu pütünlǝy yǝp kǝtti!
16 Các tài vật mà Đức Chúa Trời đoạt nơi tay cha chúng tôi tức là của chúng tôi và của con cái chúng tôi. Vậy bây giờ, chàng hãy làm theo mọi lời Đức Chúa Trời đã phán dạy.
Xundaⱪ bolƣandin keyin, Huda Atimizdin sanga elip bǝrgǝn barliⱪ dɵlǝt biz bilǝn balilirimizningkidur. Əmdi Huda sanga nemǝ degǝn bolsa, xuni ⱪilƣin, — dedi.
17 Gia-cốp bèn đứng dậy, đỡ vợ và con lên lưng lạc đà,
Xuning bilǝn Yaⱪup ornidin turup, baliliri wǝ ayallirini tɵgilǝrgǝ mindurup, erixkǝn barliⱪ malliri wǝ barliⱪ tǝǝlluⱪatini, yǝni Padan-Aramda tapⱪan tǝǝlluⱪatlirini elip, atisi Isⱨaⱪning yeniƣa berixⱪa Ⱪanaan zeminiƣa ⱪarap yol aldi.
18 dẫn hết thảy súc vật và của cải mình, tức súc vật mình đã gây dựng ở Pha-đan-A-ram, đặng trở về cùng Y-sác, cha mình, ở Ca-na-an.
19 Trong lúc La-ban mắc đi hớt lông chiên người, thì Ra-chên ăn cắp các pho tượng thờ trong nhà của cha mình.
Laban bolsa ⱪoylirini ⱪirⱪiƣili kǝtkǝnidi; Raⱨilǝ ɵz atisiƣa tǝwǝ «ɵy butliri»ni oƣrilap eliwaldi.
20 Gia-cốp gạt La-ban, vì không nói rằng, mình muốn đi trốn.
Yaⱪup aramiy Labanƣa ɵz ⱪexidin oƣriliⱪqǝ ⱪeqip ketidiƣanliⱪini uⱪturmay uni aldap ⱪoyƣanidi.
21 Vậy, người đứng dậy, đem theo hết thảy tài vật mình, trốn đi ngang qua sông, thẳng tuốt về núi Ga-la-át.
U bar-yoⱪini elip ⱪeqip kǝtti; u dǝryadin ɵtüp Gilead teƣi tǝrǝpkǝ ⱪarap yol aldi.
22 Đến ngày thứ ba, người ta học lại cùng La-ban rằng Gia-cốp đã trốn đi rồi.
Üqinqi küni, Labanƣa Yaⱪupning ⱪaqⱪini toƣrisida hǝwǝr yǝtti.
23 Người bèn đem các anh em mình đuổi theo Gia-cốp trong bảy ngày đường, và theo kịp tại núi Ga-la-át.
U ɵz tuƣⱪanlirini elip, yǝttǝ künlük yolƣiqǝ kǝynidin ⱪoƣlap berip, Gilead teƣida uningƣa yetixti.
24 Nhưng trong cơn chiêm bao lúc ban đêm, Đức Chúa Trời đến cùng La-ban, người A-ram, mà phán rằng: Dầu lành dầu dữ, thế nào ngươi khá giữ mình đừng nói chi cùng Gia-cốp hết.
Lekin keqisi Huda aramiy Labanning qüxigǝ kirip uningƣa: «Sǝn ⱨezi bol, Yaⱪupⱪa ya aⱪ ya kɵk demǝ!» dedi.
25 Vậy, La-ban theo kịp Gia-cốp. Vả, Gia-cốp đang đóng trại trên núi; La-ban và các anh em người cũng đóng trại trên núi Ga-la-át.
Laban Yaⱪupⱪa yetixip barƣanda, Yaⱪup qedirini taƣning üstigǝ tikgǝnidi. Labanmu tuƣⱪanliri bilǝn Gilead teƣining üstidǝ qedir tikti.
26 La-ban nói cùng Gia-cốp rằng: Cháu đã làm chi vậy? Cháu đã gạt cậu và dẫn mấy đứa gái cậu như phu tù giặc.
Laban Yaⱪupⱪa: — Bu nemǝ ⱪilƣining? Sǝn meni aldap, ⱪizlirimni uruxta alƣan oljidǝk elip kǝtting?
27 Sao trốn nhẹm, gạt và không cho cậu hay trước? Có lẽ cậu đưa đi rất vui vẻ, tiếng hát, tiếng đàn và tiếng trống phụ đưa.
Nemixⱪa yoxurun ⱪaqisǝn, manga hǝwǝr bǝrmǝy mǝndin oƣriliⱪqǝ kǝtting? Manga degǝn bolsang mǝn huxal-huramliⱪ bilǝn ƣǝzǝl oⱪup, dap wǝ qang qelip, seni uzitip ⱪoymamtim?
28 Cháu làm cách dại dột vậy, không để cho cậu hôn con trai và con gái cậu.
Xundaⱪ ⱪilip sǝn manga ɵz oƣullirim wǝ ⱪizlirimni sɵyüp uzitip ⱪoyux pursitinimu bǝrmiding. Bu ixta ǝhmǝⱪliⱪ ⱪilding.
29 Tay cậu có đủ quyền làm hại cháu; nhưng Đức Chúa Trời của cha cháu đã mách bảo cùng cậu tối hôm qua rằng: Dầu lành dầu dữ, ngươi khá giữ mình đừng nói chi cùng Gia-cốp hết.
Silǝrgǝ ziyan-zǝhmǝt yǝtküzüx ⱪolumdin kelǝtti; lekin tünügün keqǝ atangning Hudasi manga sɵz ⱪilip: «Ⱨezi bol, Yaⱪupⱪa ya aⱪ ya kɵk demǝ» dedi.
30 Bây giờ, vì lòng cháu mong mỏi về nhà cha cháu, nên đã ra đi; nhưng cớ sao cháu lại ăn cắp các pho tượng cậu?
Hox, sǝn atangning ɵyini tolimu seƣinƣining üqün kǝtmǝy ⱪoymaysǝn; lekin nemixⱪa yǝnǝ mening butlirimni oƣriliding? — dedi.
31 Gia-cốp đáp rằng: Vì cớ tôi e cậu bắt hai người con gái lại chăng.
Yaⱪup Labanƣa jawab berip: — Mǝn ⱪorⱪup ⱪaqtim; qünki seni ⱪizlirini mǝndin mǝjburiy tartiwalamdikin, dedim.
32 Nhưng tìm nơi ai được các pho tượng của cậu, thì ai đó sẽ bị chết đi! Tại trước mặt các anh em chúng ta, cậu hãy kiểm soát các món nơi tôi đi, và hãy lấy vật chi thuộc về cậu. Vả, Gia-cốp vốn không hay rằng Ra-chên đã trộm mấy pho tượng đó.
Əmdi butliringƣa kǝlsǝk, ular kimdin qiⱪsa xu tirik ⱪalmaydu! Ⱪerindaxlirimiz aldida mǝndin ⱪandaⱪla nemǝngni tonuwalsang, uni elip kǝt, — dedi. Ⱨalbuki, Yaⱪupning Raⱨilǝning butlarni oƣrilap kǝlginidin hǝwiri yoⱪ idi.
33 Vậy, La-ban vào trại Gia-cốp, trại Lê-a, trại hai người đòi, chẳng tìm được chi cả. Đoạn, ở trại Lê-a bước ra đi vào trại Ra-chên.
Laban aldi bilǝn Yaⱪupning qediriƣa kirip, andin Leyaⱨning qediri ⱨǝm ikki dedǝkning qedirliriƣa kirip ahturup ⱨeqnemǝ tapalmidi. Leyaⱨning qediridin qiⱪip, Raⱨilǝning qediriƣa kirdi.
34 Vả, Ra-chên có lấy mấy pho tượng đó, giấu dưới bành lạc đà, rồi ngồi lên trên. La-ban soát lục khắp trại chẳng gặp pho tượng.
Raⱨilǝ bolsa ɵy butlirini elip, bularni tɵgining qomining iqigǝ tiⱪip ⱪoyup, üstidǝ olturuwalƣanidi. Laban pütkül qedirini ahturup, ⱨeqnemǝ tapalmidi.
35 Nàng bèn thưa cùng cha rằng: Vì trong mình con có việc riêng của đàn bà, nên đứng dậy rước chẳng được; xin chúa chớ giận con chi hết. Người kiếm, nhưng chẳng thấy pho tượng đâu hết.
Raⱨilǝ atisiƣa: — Əy hojam, aldingda turalmiƣinim üqün hapa bolmiƣin; qünki mǝn ⱨazir ayallarning adǝt mǝzgilidǝ turuwatimǝn, — dedi. Xundaⱪ ⱪilip, Laban ⱨǝmmǝ yǝrni ⱪoymay ahturupmu, ɵy butlirini tapalmidi.
36 Gia-cốp bèn nổi giận rầy lộn cùng La-ban, mà rằng: Tôi có án gì, tội gì, mà cậu hằm hằm đuổi theo như vậy!
Xuning bilǝn Yaⱪup aqqiⱪlap Laban bilǝn jedǝllixip kǝtti. Yaⱪup Labanƣa: — Sǝn meni kǝynimdin munqǝ aldirap-tenǝp ⱪoƣlap kǝlgüdǝk mǝndǝ nemǝ sǝwǝnlik, nemǝ gunaⱨ bar?
37 Cậu đã soát lục các đồ hành lý tôi, có kiếm được món chi thuộc về nhà cậu chăng? Hãy đem món đó ra trước mặt anh em tôi cùng anh em cậu, đặng họ xét đoán đôi ta.
Sǝn ⱨǝmmǝ yük-taⱪlirimni ahturup qiⱪting, ɵyüngning nǝrsiliridin birǝr nemǝ tapalidingmu? Birnemǝ tapⱪan bolsang, mening ⱪerindaxlirim bilǝn sening ⱪerindaxliringning aldida uni ⱪoyƣin, ular biz ikkimizning arisida ⱨɵküm ⱪilsun.
38 Kìa, đã hai mươi năm tôi ăn ở nơi nhà cậu, chiên cùng dê cậu nào có sảo thai, và tôi chẳng hề ăn thịt chiên đực của bầy cậu bao giờ;
Mǝn muxu yigirmǝ yil ⱪexingda turdum; ⱨeqⱪaqan saƣliⱪing wǝ qixi ɵqkiliring bala taxliwǝtmidi; padiliringdin ⱪoqⱪarliringni yeginim yoⱪ.
39 cũng chẳng hề đem về cho cậu một con nào bị xé; bằng có, chính tôi chịu đền đó thôi. Cậu cớ đòi luôn những con bị ăn cắp ban ngày và ăn trộm ban đêm.
Boƣuwetilgǝnlirini ⱪexingƣa elip kǝlmǝy, bu ziyanni ɵzüm toldurdum; keqisi oƣrilanƣan yaki kündüzi oƣrilanƣan bolsun sǝn uni mǝndin tɵlitip alding.
40 Ban ngày tôi chịu nắng nồng, ban đêm chịu lạnh lùng, ngủ nào có an giấc được đâu.
Mening künlirim xundaⱪ ɵttiki, kündüzi issiⱪtin, keqisi soƣuⱪtin ⱪiynilip, uyⱪu kɵzümdin ⱪaqatti.
41 Đó trong hai mươi năm tôi ở tại nhà cậu là thế; trong mười bốn năm giúp việc, để được hai con gái cậu, và sáu năm đặng lãnh lấy bầy súc vật của cậu, mà cậu lại còn thay đổi mười lần công giá tôi.
Mening künlirim muxu yigirmǝ yilda ɵyüngdǝ turup xundaⱪ boldi; on tɵt yil ikki ⱪizing üqün sanga hizmǝt ⱪildim, altǝ yil padang üqün hizmǝt ⱪildim; uning üstigǝ sǝn ix ⱨǝⱪⱪimni on ⱪetim ɵzgǝrtting.
42 Nếu Đức Chúa Trời của cha tôi, Đức Chúa Trời của Aùp-ra-ham, là Đấng mà Y-sác kính sợ, không phù hộ tôi, chắc bây giờ cậu đuổi tôi ra tay không, Đức Chúa Trời đã xem thấy nỗi đau-khổ tôi cùng công việc hai tay tôi làm, nên đêm qua Ngài đã xét công bình rồi đó.
Əgǝr atamning Hudasi, yǝni Ibraⱨimning Hudasi, yǝni Isⱨaⱪning Ⱪorⱪunqisi Bolƣanning Ɵzi mǝn bilǝn billǝ bolmisa idi, sǝn jǝzmǝn meni ⱪuruⱪ ⱪol ⱪilip ⱪayturuwetǝtting. Lekin Huda mening tartⱪan jǝbir-japalirimni, ⱪollirimning muxǝⱪⱪitini kɵrüp tünügün keqǝ sanga tǝnbiⱨ bǝrdi, — dedi.
43 La-ban đáp cùng Gia-cốp mà rằng: Các đứa gái nầy là con của cậu; các đứa trẻ nầy là trẻ của cậu; các bầy súc vật tức là bầy của cậu, và các vật chi cháu thấy được tức của cậu hết; ngày nay cậu sẽ làm chi được cùng các con gái hai là các cháu cậu đó?
Laban Yaⱪupⱪa jawab berip: — Bu ⱪizlar mening ⱪizlirim, bu oƣullar mening oƣullirim, bu pada bolsa mening padam bolidu; xundaⱪla kɵz aldingdiki ⱨǝmmǝ nǝrsǝ miningkidur; ǝmma mǝn bügün bu ⱪizlirimni wǝ ularning tuƣⱪan oƣullirini nemǝ ⱪilay?
44 Vậy bây giờ, hè! chúng ta kết-ước cùng nhau, để dùng làm chứng cho cậu và cháu.
Ⱪeni kǝl, sǝn bilǝn ikkimiz bir ǝⱨdǝ tüzüxǝyli, bu mǝn bilǝn sening otturimizda guwaⱨ bolsun, — dedi.
45 Gia-cốp lấy một hòn đá, dựng đứng lên làm trụ;
Xuning bilǝn Yaⱪup bir taxni elip ɵrǝ tiklǝp tüwrük ⱪilip ⱪoydi.
46 và nói cùng các anh em mình rằng: Hãy lượm góp đá lại. Chúng bèn góp đá lại, chất thành một đống, rồi ngồi lên trên ăn bữa.
Andin Yaⱪup ⱪerindaxliriƣa: — Tax yiƣinglar, — dewidi, taxlarni elip kelip dɵwilidi, xu yǝrdǝ tax dɵwisining yenida ƣizalinixti.
47 La-ban đặt trên đống đá đó là Y-ê-ga Sa-ha-đu-ta; còn Gia-cốp kêu là Ga-lét.
Laban bu dɵwini «Yǝgar-Saⱨaduta» dǝp atidi, Yaⱪup uningƣa «Galeǝd» dǝp at ⱪoydi.
48 La-ban nói rằng: Đống đá nầy ngày nay làm chứng cho cậu và cháu đó. Cho nên chúng gọi là Ga-lét.
Laban: — Bu dɵwǝ bügün sǝn bilǝn mening otturamda guwaⱨ bolsun, — dedi. Xunga bu sǝwǝbtin dɵwining nami «Galeǝd» ataldi.
49 Mà cũng gọi là Mích-ba, vì La-ban có nói thêm rằng: Khi chúng ta phân cách nhau, cầu xin Đức Giê-hô-va coi sóc cậu và cháu.
U jay yǝnǝ «Mizpaⱨ», dǝpmu ataldi; qünki Laban yǝnǝ: — Ikkimiz bir-birimiz bilǝn kɵrüxmigǝn waⱪitlarda, Pǝrwǝrdigar sǝn bilǝn mening otturamda ⱪarawul bolup kɵzitip tursun.
50 Nếu cháu hành hạ các con gái cậu, nếu cưới vợ khác nữa, thì hãy giữ mình! Chẳng phải người thường soi xét ta đâu, bèn là Đức Chúa Trời làm chứng cho chúng ta vậy.
Əgǝr sǝn ⱪizlirimni bozǝk ⱪilsang, yaki ⱪizlirimning üstigǝ baxⱪa hotunlarni alsang, baxⱪa ⱨeq kixi ⱪeximizda ⱨazir bolmiƣan tǝⱪdirdimu, mana, Huda mǝn bilǝn sening arangda guwaⱨqidur!
51 La-ban lại nói cùng Gia-cốp rằng: Nầy đống đá, nầy cây trụ mà cậu đã dựng lên giữa cậu và cháu đây.
Laban Yaⱪupⱪa yǝnǝ: — Mana, bu dɵwigǝ ⱪara, mǝn bilǝn sǝn ikkimizning otturisida mǝn tiklǝp ⱪoyƣan bu tüwrükkimu ⱪara;
52 Đống đá nầy và cây trụ nầy làm chứng rằng cậu chẳng qua khỏi đây, đi đến nơi cháu, và cháu cũng chẳng vượt khỏi đây, đi đến nơi cậu, trong khi có ý muốn làm hại nhau.
kǝlgüsidǝ bu dɵwǝ wǝ bu tüwrükmu mǝn yaman niyǝt bilǝn bu dɵwidin sening tǝripinggǝ ɵtmǝslikim üqün, seningmu niyitingni yaman ⱪilip bu dɵwǝ wǝ bu tüwrüktin ɵtüp mening tǝripimgǝ kǝlmǝsliking üqün guwaⱨqi bolsun.
53 Cầu xin Đức Chúa Trời của Aùp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Na-cô, Đức Chúa Trời của cha các người đó đoán xét cho chúng ta! Gia-cốp chỉ Đấng của Y-sác, cha mình, kính sợ mà thề.
Ibraⱨimning ilaⱨi, Naⱨorning ilaⱨi wǝ bu ikkisining atisining ilaⱨliri arimizda ⱨɵküm qiⱪarsun, — dedi. Yaⱪup bolsa atisi Isⱨaⱪning Ⱪorⱪunqisi Bolƣuqi bilǝn ⱪǝsǝm ⱪildi.
54 Đoạn, người dâng một của lễ tại trên núi, và mời các anh em mình dùng bánh. Vậy, chúng dùng bánh, rồi ở ban đêm trên núi.
Andin Yaⱪup taƣ üstidǝ bir ⱪurbanliⱪ sunup, ⱪerindaxlirini ɵzi bilǝn tamaⱪlinixⱪa tǝklip ⱪildi. Ular ⱨǝmdastihan olturdi wǝ keqisi taƣda ⱪondi.
55 La-ban dậy sớm, hôn các con trai và các con gái mình, và chúc phước cho, rồi đi trở về nhà mình.
Ətisi tang sǝⱨǝrdǝ Laban ornidin turup, nǝwriliri bilǝn ⱪizlirini sɵyüp, ularƣa bǝht-bǝrikǝt tilǝp, ɵz ɵyigǝ rawan boldi.

< Sáng Thế 31 >