< Ê-xê-ki-ên 16 >
1 Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
Ilizwi leNkosi lafika kimi futhi lisithi:
2 Hỡi con người, hãy làm cho Giê-ru-sa-lem biết những sự gớm ghiếc của nó.
Ndodana yomuntu, yenza iJerusalema yazi amanyala ayo,
3 Ngươi khá nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán cùng Giê-ru-sa-lem như vầy: Bởi cội rễ và sự sanh ra của mầy ở đất Ca-na-an; cha mầy là người A-mô-rít, mẹ là người Hê-tít.
uthi: Itsho njalo iNkosi uJehova kuyo iJerusalema: Ukudabuka kwakho lokuzalwa kwakho kungokwelizwe lamaKhanani; uyihlo wayengumAmori lonyoko umHethi.
4 Về sự mầy sanh ra, trong ngày mầy mới đẻ, rún mầy chưa cắt, chưa rửa mầy trong nước cho được thanh sạch, chưa xát bằng muối, chưa bọc bằng khăn.
Mayelana lokuzalwa kwakho, ngosuku owazalwa ngalo inkaba yakho kayiqunywanga, njalo kawugeziswanga emanzini ukuthi uhlanjululwe, kawugcotshwanga ngetshwayi ngitsho, kawugoqelwanga ngamalembu ngitsho.
5 Chẳng có mắt nào thương mầy, đặng làm một việc trong những việc đó cho mầy vì lòng thương xót mầy; song mầy đã bị quăng giữa đồng trống trong ngày mầy sanh ra, vì người ta gớm mầy.
Kakulalihlo elakuhawukelayo, ukuthi lenze yiloba yikuphi kwalezizinto kuwe, ukuthi likuhawukele. Kodwa waphoselwa ebusweni bendle, ekunengekeni kobuntu bakho, ngosuku owazalwa ngalo.
6 Khi ta qua gần mầy, thấy mầy tắm trong máu mình, ta phán cùng mầy rằng: Dầu ở giữa máu mầy, hãy sống! Thật, ta phán cùng mầy rằng: Dầu ở giữa máu mầy, hãy sống!
Kwathi ngisedlula kuwe ngikubona uqhatsha egazini lakho, ngathi kuwe usegazini lakho: Phila; yebo ngathi kuwe usegazini lakho: Phila.
7 Ta đã làm cho mầy thêm nhiều ra, như vật đồng ruộng mọc lên. Mầy đã nẩy nở, lớn lên, và trở nên đẹp đẽ lắm. Vú mầy dậy lên, tóc mầy dài ra, nhưng hãi còn ở lỗ và trần truồng.
Ngikwenzile waba linani elikhulu, waba njengehlumela leganga, wanda, wakhula, wafika emicecisweni emihle; amabele akho abumbekile, lenwele zakho zakhula; kanti wawunqunu uze.
8 Khi ta qua gần mầy, và nhìn mầy, nầy, tuổi mầy nầy, mầy đã đến tuổi yêu mến. Ta lấy áo ngoài ta trùm trên mầy, che sự trần truồng mầy. Phải, ta thề cùng mầy và kết giao ước với mầy, thì mầy trở nên của ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Kwathi ngisedlula kuwe ngakubona, khangela-ke, isikhathi sakho sasiyisikhathi sothando; ngasengisendlala umphetho wesembatho sami phezu kwakho, ngembesa ubunqunu bakho; yebo, ngafunga kuwe, ngangena esivumelwaneni lawe, itsho iNkosi uJehova, wasusiba ngowami.
9 Ta rửa mầy trong nước, làm cho sạch máu vấy mình mầy, và xức dầu cho.
Ngasengikugezisa ngamanzi, ngahlambulula igazi lakho elinengi kuwe, ngakugcoba ngamafutha.
10 Ta mặc áo thêu cho mầy, cho mầy mang giày sắc lam, thắt lưng mầy bằng vải gai mịn, đắp cho mầy bằng hàng lụa.
Ngakugqokisa ilembu elifekethisiweyo, ngakufaka amanyathela ezikhumba zikamantswane, ngakubhincisa ilembu elicolekileyo kakhulu, ngakwembesa ngesilika.
11 Ta lấy đồ trang sức giồi cho mầy, xỏ vòng vào tay, mang kiềng vào cổ,
Ngakucecisa ngeziceciso, ngafaka amasongo ezandleni zakho, leketane entanyeni yakho.
12 tra khoen nơi mũi, đeo hoa vào tai, và đội mão đẹp trên đầu mầy.
Ngafaka isongo emakhaleni akho, lamacici ezindlebeni zakho, lomqhele omuhle ekhanda lakho.
13 Như vậy, mầy được trang sức bằng vàng bằng bạc; áo xống của mầy bằng vải gai mịn, bằng hàng lụa, bằng đồ thêu; mầy nuôi mình bằng bột mì lọc, bằng mật ong và bằng dầu. Mầy đã trở nên cực đẹp, và thạnh vượng đến nỗi được ngôi hoàng hậu.
Ngokunjalo waceciswa ngegolide lesiliva, lesembatho sakho sasingeselembu elicolekileyo kakhulu, lesilika, lelembu elifekethisiweyo; wadla impuphu ecolekileyo, loluju, lamafutha; waba muhle kakhulukazi, waphumelela waba ngumbuso.
14 Danh tiếng mầy lừng lẫy trong các nước bởi sắc đẹp mầy; vì sự đẹp là trọn vẹn bởi oai nghi của ta mà ta đã đặt trên mầy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Lodumo lwakho lwaphumela ezizweni ngobuhle bakho, ngoba babuphelele ngenkazimulo yami, engayibeka phezu kwakho, itsho iNkosi uJehova.
15 Nhưng mầy cậy sắc đẹp mình; cậy danh tiếng mình mà buông sự dâm dục, hành dâm cùng mọi kẻ trải qua, phó mình mầy cho nó.
Kodwa wathembela ebuhleni bakho, wawula ngenxa yebizo lakho, wathululela ukuwula kwakho kuye wonke odlulayo, kwaba ngokwakhe.
16 Mầy dùng áo xống mình, và làm các nơi cao cho mình, trang sức nhiều mùi, và làm sự dâm loạn tại đó; điều ấy sẽ chẳng đến, cũng sẽ chẳng có bao giờ.
Wathatha ezembathweni zakho, wazenzela indawo eziphakemeyo ngemibala, wawulela phezu kwazo; izinto ezinje kaziyikuza, njalo kakuyikwenzeka.
17 Mầy cũng đã lấy những đồ trang sức trọng thể, làm bằng vàng và bạc mà ta đã ban cho mầy; mầy dùng làm hình người nam, rồi hành dâm với nó.
Wathatha futhi izitsha zakho ezinhle egolideni lami lesiliveni sami engangikunike khona, wazenzela izithombe zabesilisa, wawula lazo.
18 Mầy lấy áo xống thêu của mình mà đắp cho chúng nó, lấy dầu và hương của ta bày ra trước mặt chúng nó.
Wathatha izembatho zakho ezifekethisiweyo, wazisibekela; wabeka amafutha ami lempepha yami phambi kwazo.
19 Bánh mà ta đã ban cho mầy, bột mì lọc, dầu, và mật ong mà ta cho mầy ăn, thì mầy đem mà bày ra hết trước mặt chúng nó, để làm mùi thơm tho. Thật, có sự ấy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Lokudla kwami engakunika khona, impuphu ecolekileyo lamafutha loluju engangikondla ngakho, wakubeka phambi kwazo kwaba liphunga elimnandi; kwaba njalo, itsho iNkosi uJehova.
20 Mầy đã bắt những con trai con gái mà mầy đã sanh ra cho ta, đem dâng cho chúng nó đặng nuốt đi. Những sự dâm ô đó há phải là nhỏ mọn sao?
Wasuthatha amadodana akho lamadodakazi akho, owawungizalele wona, wawahlabela zona ukuze adliwe. Ukuphinga kwakho kwakukuncinyane yini,
21 Mầy đã giết con cái ta, và đã đưa qua trên lửa mà nộp cho chúng nó.
ukuze ubulale abantwana bami, ubanikela ukuba ubadabuliseemlilweni kuzo?
22 Giữa mọi sự gớm ghiếc và sự tà dâm mầy, mầy không nhớ lúc còn thơ trẻ, khi mầy hãi còn ở lỗ, truồng trần hết cả, tắm trong máu mình.
Lakuwo wonke amanyala akho lokuwula kwakho kawukhumbulanga insuku zobutsha bakho, lapho wawunqunu uze, uqhatsha egazini lakho.
23 Chúa Giê-hô-va phán: Khốn nạn, khốn nạn cho mầy! sau khi mầy làm mọi sự dự ấy,
Kwasekusithi emva kwayo yonke inkohlakalo yakho (maye, maye kuwe! itsho iNkosi uJehova),
24 lại xây vòng khung cho mình, dựng nơi cao cho mình trên mọi đường phố.
wazakhela idundulu, wazenzela indawo ephakemeyo kuso sonke isitalada.
25 Nơi lối vào các đường phố, mầy xây nơi cao mình, và đã làm cho sự đẹp đẽ mầy nên gớm ghiếc, mầy đã nộp mình cho mọi người đi qua, và thêm nhiều sự tà dâm mầy.
Kuyo yonke inhloko yendlela wakhile indawo yakho ephakemeyo, wenza ubuhle bakho banengeka, wavulela bonke abedlulayo izinyawo zakho, wandisa ukuwula kwakho.
26 Mầy đã hành dâm với những người Ê-díp-tô, là người lân cận mầy có thân thể mạnh mẽ, mầy đã thêm nhiều sự tà dâm đặng chọc giận ta.
Njalo waphinga labantwana bamaGibhithe, omakhelwane bakho, abakhulu ngenyama, wandisa ukuwula kwakho, ukuze ungithukuthelise.
27 Vậy, ta đã giang tay ta trên mầy; bớt phần đã chỉ định cho mầy, và phó mầy cho ý muốn của kẻ ghét mầy, tức các con gái Phi-li-tin, chúng nó đã mắc cỡ về sự hành dâm của mầy.
Ngakho, khangela, ngelulele isandla sami phezu kwakho, nganciphisa isabelo sakho esimisiweyo, ngakunikela entandweni yabakuzondayo, amadodakazi amaFilisti, alenhloni ngendlela yakho embi.
28 Mầy cũng đã hành dâm cùng những người A-si-ri, vì mầy không no chán. Sau khi đã phạm tội tà dâm với chúng nó, mầy còn chưa no chán.
Uwulile futhi labantwana bamaAsiriya ngoba ungasuthiseki; yebo, uwulile lawo, kube kanti kawusuthisekanga.
29 Vả, mầy đã thêm nhiều sự dâm dục với đất Ca-na-an cho đến Canh-đê, thế mà mầy cũng chưa no chán!
Wandisa futhi ukuwula kwakho elizweni leKanani kuze kube seKhaladiya; kodwa langalokhu kawusuthisekanga.
30 Chúa Giê-hô-va phán: Oâi! lòng mầy luốt lát là dường nào, mầy phạm mọi việc đó, là việc của đàn bà tà dâm không biết xấu.
Ibuthakathaka kangakanani inhliziyo yakho, itsho iNkosi uJehova, ekwenzeni kwakho zonke lezizinto, umsebenzi wowesifazana ophingayo, obusayo,
31 Khi mầy xây vòng khung mình nơi lối vào mỗi đường, dựng nơi cao trên mỗi đường phố, mầy không giống như đứa điếm đĩ, bởi mầy khinh tiền công;
ekwakheni kwakho idundulu lakho enhlokweni yayo yonke indlela, wenza indawo yakho ephakemeyo kuso sonke isitalada, kanti kawubanga njengewule ngoba wadelela iholo lewule.
32 mầy là đàn bà ngoại tình, tiếp người lạ thay vì chồng mình.
Umfazi ofebayo, endaweni yendoda yakhe uthatha abemzini!
33 Hễ là đứa điếm đĩ thì được tiền công; nhưng mầy thì dâng lễ vật cho hết thảy tình nhân mầy; mầy đã hối lộ cho chúng, để chúng đến tư bề mà hành dâm với mầy.
Bapha isipho kuwo wonke amawule. Kodwa wena unika isipho sakho kuzo zonke izithandwa zakho, uzithenga ukuze zize kuwe enhlangothini zonke ngokuwula kwakho.
34 Mầy đã làm trái với đàn bà khác trong sự tà dâm mầy, vì người ta không tìm mầy; và mầy trả tiền công, còn người ta không cho mầy chi hết. Aáy là mầy trái với những kẻ khác!
Ngakho kuwe kulokuphambene labesifazana ekuwuleni kwakho, ngoba kakho olandela wena ukuyawula; lekunikeni kwakho iholo lewule, njalo unganikwanga iholo lewule, ngakho usube ngophambeneyo.
35 Vậy nên, hỡi kẻ điếm đĩ, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va.
Ngakho, wena wule, zwana ilizwi leNkosi.
36 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì cớ mầy đã đổ ra sự ô uế, tỏ ra sự trần truồng bởi sự hành dâm với tình nhân mầy; và vì cớ mọi thần tượng gớm ghiếc của mầy, cũng vì cớ máu con cái mầy đã dâng cho chúng nó,
Itsho njalo iNkosi uJehova: Ngoba ukuwula kwakho kuthululiwe, lobunqunu bakho bembulwa ngokuwula kwakho lezithandwa zakho, langazo zonke izithombe zezinengiso zakho, langegazi labantwana bakho owazinika bona.
37 cho nên, nầy, ta sẽ nhóm hết thảy tình nhân mầy, tức những kẻ mầy ưa thích, mọi kẻ mầy yêu, mọi kẻ mầy ghét; ta sẽ nhóm chúng nó từ mọi bề đến nghịch cùng mầy; ta sẽ lột truồng mầy cho chúng nó, chúng nó sẽ thấy hết.
Ngakho, khangela, ngizaqoqa zonke izithandwa zakho obuthokoza lazo, lazo zonke obuzithanda kanye lazo zonke obuzizonda; ngiziqoqe zimelane lawe zivela enhlangothini zonke, ngembule ubunqunu bakho kuzo ukuze zibone bonke ubunqunu bakho.
38 Ta sẽ đoán phạt mầy như đoán phạt đàn bà bội chồng và làm đổ máu; ta sẽ lấy máu của sự giận dữ và ghen tương mà đổ trên mầy.
Njalo ngizakugweba ngezahlulelo zabesifazana abafebayo labachithi begazi, ngikuphe igazi lentukuthelo lobukhwele.
39 Ta cũng sẽ phó mầy vào tay chúng nó: chúng nó sẽ phá vòng khung và đổ các nơi cao của mầy; lột áo xống mầy, cất lấy đồ trang sức đẹp đẽ mầy, để mầy ở lỗ và truồng trần.
Ngizakunikela futhi esandleni sazo, ziwisele phansi idundulu lakho, zidilize indawo zakho eziphakemeyo, zikuhlubule izigqoko zakho, zithathe izinto zakho ezinhle, zikutshiye unqunu uze.
40 Chúng nó sẽ khiến một lũ người lên nghịch cùng mầy, ném đá mầy và đâm mầy bằng gươm.
Zikwenyuselele ixuku, zikukhande ngamatshe, zikugwaze ngezinkemba zazo.
41 Chúng nó sẽ lấy lửa đốt nhà mầy, đoán xét mầy trước mắt nhiều đàn bà; ta sẽ làm cho mầy hết hành dâm và mầy cũng không cho tiền công nữa.
Zitshise izindlu zakho ngomlilo, zenze izahlulelo phezu kwakho phambi kwamehlo abesifazana abanengi. Njalo ngizakwenza uyekele ekubeni liwule, njalo kawusayikupha iholo lewule futhi.
42 Vậy thì cơn giận ta sẽ dứt, sự ghen tương ta lìa khỏi mầy, và ta yên lặng, không giận nữa.
Ngokunjalo ngizakwenza ukukuthukuthelela kwami kuphumule, lobukhwele bami busuke kuwe; njalo ngizathula, ngingabe ngisathukuthela.
43 Vì mầy không nhớ lúc mình còn thơ bé, và đã nóng giận nghịch cùng ta trong mọi việc; cho nên, nầy, ta cũng sẽ làm cho đường lối mầy lại đổ trên đầu mầy, Chúa Giê-hô-va phán vậy; mầy sẽ không thêm sự hành dâm nầy vào mọi sự gớm ghiếc mầy nữa.
Ngenxa yokuthi ungakhumbulanga insuku zobutsha bakho, kodwa ungithukuthelisile ngazo zonke lezizinto, khangela, mina-ke ngizakwehlisela futhi indlela yakho phezu kwekhanda lakho, itsho iNkosi uJehova. Njalo kawuyikwenza lobububi phezu kwazo zonke izinengiso zakho.
44 Phàm người hay dùng tục ngữ, sẽ lấy câu tục ngữ nầy mà nói về mầy: Mẹ thế nào, con gái thế ấy!
Khangela, wonke osebenzisa izaga uzasebenzisa isaga ngawe esithi: Njengonina injalo indodakazi yakhe.
45 Mầy là con gái của mẹ mầy, mẹ mầy đã chán bỏ chồng con mình; mầy là em các chị mầy, các chị mầy đã chán bỏ chồng con mình; mẹ mầy là người Hê-tít, và cha mầy là người A-mô-rít.
Wena uyindodakazi kanyoko, owayesenyanya indoda yakhe labantwana bakhe; lawe ungudade wabodadewenu, ababesenyanya amadoda abo labantwana babo; unyoko wayengumHethi loyihlo umAmori.
46 Chị mầy là Sa-ma-ri cùng các con gái nó, ở bên tả mầy; em mầy là Sô-đôm cùng các con gái nó, ở bên hữu mầy.
Lodadewenu omdala yiSamariya, yena lamadodakazi akhe abahlala ngakwesokhohlo sakho; lodadewenu omncane kuwe, ohlala ngakwesokunene sakho, yiSodoma lamadodakazi ayo.
47 Còn mầy không bước đi trong đường chúng nó, và không phạm những sự gớm ghiếc giống nhau; mầy cho điều đó là nhỏ mọn, nhưng mầy đã tự làm ra xấu hơn chúng nó trong mọi đường lối mầy nữa.
Kanti kawuhambanga ngezindlela zabo, wenze njengokwezinengiso zabo; kwakunjengento encinyane enengekayo; kodwa wonakala kulabo kuzo zonke izindlela zakho.
48 Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, Sô-đôm, em mầy, chính mình nó và con gái nó chưa từng làm sự mầy và con gái mầy đã làm.
Kuphila kwami, itsho iNkosi uJehova, isibili iSodoma udadewenu kayenzanga, yona lamadodakazi ayo, njengokwenza kwakho, wena lamadodakazi akho.
49 Nầy, đây là sự gian ác của em gái mầy là Sô-đôm và các con gái nó: ở kiêu ngạo, ăn bánh no nê, và ở nể cách sung sướng; nó lại không bổ sức cho tay kẻ nghèo nàn và thiếu thốn.
Khangela, lesi sasiyisiphambeko seSodoma udadewenu: Ukuzigqaja, ukusutha isinkwa, lokuchelesa okulokuthula kwakukuyo lakumadodana ayo, kodwa kaqinisanga isandla sabayanga labaswelayo.
50 Chúng nó đã trở nên cao ngạo, phạm những sự gớm ghiếc trước mặt ta; nên ta đã trừ chúng nó đi, vừa khi ta thấy mọi điều đó.
Babeziphakamisa, benza isinengiso phambi kwami; ngakho ngabasusa njengokubona kwami.
51 Sa-ma-ri chưa phạm đến phân nửa tội mà mầy đã phạm; mầy đã thêm nhiều sự gớm ghiếc hơn nó, và bởi những sự gớm ghiếc mầy đã phạm, thì chị em mầy còn được kể là công bình.
Futhi iSamariya kayonanga ngengxenye yezono zakho; kodwa wena wandisile izinengiso zakho kulabo, walungisisa odadewenu ngezinengiso zakho zonke ozenzileyo.
52 Mầy xét đoán chị em mầy, ấy là mầy chuốc lấy sự xấu hổ mình. Vì cớ tội lỗi mầy còn là đáng gớm hơn chúng nó, thì chúng nó là công bình hơn mầy. Vậy, mầy cũng hãy mang nhơ chịu hổ, vì mầy đã làm cho chị em mầy được kể là công bình!
Lawe, thwala ihlazo lakho, wena owahlulele odadewenu, ngezono zakho ozenzileyo ngokunengeka okwedlula bona; balungile kulawe. Ngakho lawe woba lenhloni, uthwale ihlazo lakho, ngoba ubalungisisile odadewenu.
53 Ta sẽ đem những phu tù của Sô-đôm và các con gái nó trở về, đem những phu tù của Sa-ma-ri và các con gái nó trở về, cũng đem các phu tù của mầy ở giữa chúng nó trở về nữa;
Lapho ngizabuyisa abathunjiweyo babo, abathunjwa beSodoma lamadodakazi ayo, labathunjwa beSamariya lamadodakazi ayo, khona ngizabuyisa ukuthunjwa kwabathunjwa bakho phakathi kwabo.
54 để mầy mang nhuốc mình, và chịu hổ về mọi điều mầy đã làm, vì đã làm cho chúng nó được yên ủi.
Ukuze uthwale ihlazo lakho, ube lenhloni ngakho konke okwenzileyo ekubaduduzeni kwakho.
55 Chị em mầy, Sô-đôm và con gái nó, sẽ trở lại như khi xưa. Sa-ma-ri cùng con gái nó cũng trở lại như khi xưa. Mầy cùng con gái mầy cũng sẽ trở lại như khi xưa.
Lapho odadewenu iSodoma lamadodakazi ayo bezabuyela esimeni sabo sakuqala, leSamariya lamadodakazi ayo babuyele esimeni sabo sakuqala, lawe lamadodakazi akho lizabuyela esimeni senu sakuqala.
56 Trong ngày mầy kiêu ngạo, miệng mầy chẳng nhắc đến tên Sô-đôm, em mầy;
Ngoba iSodoma udadewenu kayibanga semlonyeni wakho njengombiko ngosuku lokuzigqaja kwakho,
57 lúc đó sự dự của mầy chưa lộ ra, mầy còn chưa bị những lời nhiếc móc của con gái Sy-ri và hết thảy các xứ lân cận, của các con gái Phi-li-tin nó khinh dể mầy tư bề.
bungakembulwa ububi bakho, ngesikhathi sehlazo lamadodakazi eSiriya, labo bonke abayizingelezeleyo, amadodakazi amaFilisti, abakweyisayo inhlangothi zonke.
58 Mầy đã mang lấy sự hành dâm và sự gớm ghiếc của mầy, Đức Giê-hô-va phán vậy.
Wena uthwele amacebo akho amabi lezinengiso zakho, itsho iNkosi.
59 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Mầy đã khinh dể lời thề mà dứt bỏ giao ước ta, ta sẽ đối đãi mầy như mầy đã làm.
Ngoba itsho njalo iNkosi uJehova: Ngizakwenza lakuwe njengokwenza kwakho, odelela isifungo ngokwephula isivumelwano.
60 Dầu vậy, ta sẽ nhớ lại giao ước ta đã lập với mầy đang ngày mầy thơ bé, ta vì mầy sẽ lập một giao ước đời đời.
Kube kanti mina ngizakhumbula isivumelwano sami lawe ensukwini zobutsha bakho, ngimise lawe isivumelwano esilaphakade.
61 Khi mầy sẽ nhận lấy những chị em mầy, mầy sẽ nhớ lại đường lối mình mà hổ thẹn; bấy giờ ta sẽ trao chúng nó cho mầy làm con gái, nhưng không cứ theo giao ước mầy.
Khona uzakhumbula izindlela zakho, ube lenhloni, lapho usemukela odadewenu, omdala kuwe lomncinyane kuwe; ngoba ngizakunika bona babe ngamadodakazi, kodwa kungabi ngesivumelwano sakho.
62 Ta sẽ lập giao ước ta với mầy, mầy sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va;
Njalo mina ngizamisa isivumelwano sami lawe, uzakwazi-ke ukuthi ngiyiNkosi.
63 hầu cho mầy được nhớ lại và hổ ngươi; vì cớ sự xấu hổ mầy, mầy chẳng còn mở miệng nữa, khi ta đã tha thứ mọi điều mầy đã làm, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ukuze ukhumbule, ube lenhloni, ungabe usavula umlomo wakho ngenxa yehlazo lakho, lapho sengikwenzele inhlawulo yokuthula ngakho konke okwenzileyo, itsho iNkosi uJehova.