< I Các Vua 1 >
1 Vua Đa-vít đã già; tuổi cao; và mặc dầu người ta đắp áo cho người, cũng không thể ấm được.
Dawut padixaⱨ heli yaxinip ⱪalƣanidi; uni yotⱪan-ǝdiyal bilǝn yapsimu, u issimaytti.
2 Các tôi tớ người nói với người rằng: Xin tìm cho vua chúa tôi một gái trẻ đồng trinh, để hầu hạ vua và săn sóc vua. Nàng sẽ nằm trong lòng vua, thì vua chúa tôi có thể ấm được.
Hizmǝtkarliri uningƣa: — Ƣojam padixaⱨ ɵzliri üqün, aldilirida turidiƣan bir pak ⱪiz tapⱪuzayli; u padixaⱨtin hǝwǝr elip, silining ⱪuqaⱪlirida yatsun; xuning bilǝn ƣojam padixaⱨ issiyla — dedi.
3 Vậy người ta tìm trong khắp địa phận Y-sơ-ra-ên một người gái trẻ đẹp, và gặp được A-bi-sác, người Su-nem, dẫn nàng đến cùng vua.
Ular pütkül Israil zeminini kezip güzǝl bir ⱪizni izdǝp yürüp, ahiri Xunamliⱪ Abixagni tepip padixaⱨning aldiƣa elip kǝldi.
4 Người gái trẻ này rất là lịch sự. Nàng săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua không thân cận nàng.
Ⱪiz intayin güzǝl idi; u padixaⱨtin hǝwǝr elip uning hizmitidǝ bolatti, ǝmma padixaⱨ uningƣa yeⱪinqiliⱪ ⱪilmaytti.
5 Vả, A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, tự tôn mà rằng: Ta sẽ làm vua. Người sắm xe và quân kỵ, cùng năm mươi người chạy trước mặt mình.
Əmma Ⱨaggitning oƣli Adoniya mǝrtiwisini kɵtürmǝkqi bolup: «Mǝn padixaⱨ bolimǝn» dedi. U ɵzigǝ jǝng ⱨarwiliri bilǝn atliⱪlarni wǝ aldida yüridiƣan ǝllik ǝskǝrni tǝyyar ⱪildi
6 Cha người chẳng hề phiền lòng người mà hỏi rằng: Cớ sao mầy làm như vậy? Vả lại, A-đô-ni-gia rất đẹp, sanh ra kế sau Aùp-sa-lôm.
(uning atisi ⱨeqⱪaqan: «Nemixⱪa bundaⱪ ⱪilisǝn?» dǝp, uningƣa tǝnbiⱨ-tǝrbiyǝ beripmu baⱪmiƣanidi ⱨǝm u naⱨayiti kelixkǝn yigit bolup, anisi uni Abxalomdin keyin tuƣⱪanidi).
7 Người bàn tính với Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia và với thầy tế lễ A-bia-tha; hai người theo phe A-đô-ni-gia và giúp đỡ người.
U Zǝruiyaning oƣli Yoab wǝ kaⱨin Abiyatar bilǝn mǝsliⱨǝt ⱪilixip turdi. Ular bolsa Adoniyaƣa ǝgixip uningƣa yardǝm berǝtti.
8 Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc và Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, Na-than, thầy tiên tri, Si-mê-i, Rê-i, và các dõng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia.
Lekin kaⱨin Zadok wǝ Yǝⱨoyadaning oƣli Binaya, Natan pǝyƣǝmbǝr, Ximǝy, Rǝy wǝ Dawutning ɵz palwanliri Adoniyaƣa ǝgǝxmidi.
9 A-đô-ni-gia dâng những chiên, bò, và bò con mập bên hòn đá Xô-hê-lết, ở cạnh giếng Eân-Rô-ghên; rồi mời anh em mình, là các con trai của vua, và hết thảy những người Giu-đa phục sự vua.
Adoniya ⱪoy, kala wǝ bordiƣan torpaⱪlarni Ən-Rogǝlning yenidiki Zoⱨǝlǝt degǝn taxta soydurup, ⱨǝmmǝ aka-ukilirini, yǝni padixaⱨning oƣulliri bilǝn padixaⱨning hizmitidǝ bolƣan ⱨǝmmǝ Yǝⱨudalarni qaⱪirdi.
10 Nhưng người chẳng mời Na-than, là đấng tiên tri, Bê-na-gia, các dõng sĩ, cùng Sa-lô-môn, em mình.
Lekin Natan pǝyƣǝmbǝr, Binaya, palwanlar wǝ ɵz inisi Sulaymanni u qaⱪirmidi.
11 Bấy giờ, Na-than nói với Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn, mà rằng: Bà há chẳng hay rằng A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã làm vua, mà Đa-vít, chúa ta, chẳng hay biết sao?
Natan bolsa Sulaymanning anisi Bat-Xebaƣa: — «Anglimidingmu? Ⱨaggitning oƣli Adoniya padixaⱨ boldi, lekin ƣojimiz Dawut uningdin hǝwǝrsiz.
12 Thế thì, bây giờ, hãy nghe; tôi sẽ cho bà một kế để bà cứu mạng sống mình và mạng sống của Sa-lô-môn.
Əmdi mana, ɵz jening wǝ oƣlung Sulaymanning jenini ⱪutⱪuzuxⱪa mening sanga bir mǝsliⱨǝt beriximkǝ ijazǝt bǝrgǝysǝn.
13 Hãy đi ra mắt vua Đa-vít, và tâu rằng: Oâi vua, chúa tôi! chúa há chẳng có thề cùng con đòi của chúa rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn ắt sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta, hay sao? Vậy, cớ sao A-đô-ni-gia trị vì?
Dawut padixaⱨning aldiƣa berip uningƣa: — Ƣojam padixaⱨ ɵzliri ⱪǝsǝm ⱪilip ɵz kǝminilirigǝ wǝdǝ ⱪilip: «Sening oƣlung Sulayman mǝndin keyin padixaⱨ bolup tǝhtimdǝ olturidu» degǝn ǝmǝsmidilǝ? Xundaⱪ turuⱪluⱪ nemixⱪa Adoniya padixaⱨ bolidu? — degin.
14 Trong lúc bà tâu với vua như vậy, thì chính tôi cũng sẽ đi vào sau, làm cho quả quyết các lời của bà.
Mana, padixaⱨ bilǝn sɵzlixip turƣiningda, mǝnmu sening kǝyningdin kirip sɵzüngni ispatlaymǝn, — dedi.
15 Vậy, Bát-Sê-ba đi đến cùng vua, tại trong phòng. Vua đã già lắm có A-bi-sác, người Su-nem, hầu hạ người.
Bat-Xeba iqkiri ɵygǝ padixaⱨning ⱪexiƣa kirdi (padixaⱨ tolimu ⱪerip kǝtkǝnidi, Xunamliⱪ Abixag padixaⱨning hizmitidǝ boluwatatti).
16 Bát-Sê-ba cúi mình xuống và lạy trước mặt vua. Vua hỏi rằng: Ngươi muốn chi?
Bat-Xeba padixaⱨⱪa engixip tǝzim ⱪildi. Padixaⱨ: — Nemǝ tǝliping bar? — dǝp soridi.
17 Bà tâu rằng: Chúa tôi ôi! chúa đã nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúa thề cùng con đòi của chúa rằng: Sa-lô-môn con trai ngươi sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ ngồi trên ngôi ta.
U uningƣa: — I ƣojam, sili Pǝrwǝrdigar Hudaliri bilǝn ɵz dedǝklirigǝ: «Sening oƣlung Sulayman mǝndin keyin padixaⱨ bolup tǝhtimdǝ olturidu» dǝp ⱪǝsǝm ⱪilƣanidila.
18 Oâi vua chúa tôi! nhưng bây giờ, A-đô-ni-gia làm vua, mà chúa chẳng biết chi đến.
Əmdi mana, Adoniya padixaⱨ boldi! Lekin i ƣojam padixaⱨ, silining uningdin hǝwǝrliri yoⱪ.
19 Người lại có giết bò đực, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cũng có mời hết thảy các vương tử với A-bia-tha, thầy tế lễ, và Giô-áp, quan tổng binh; nhưng người không mời Sa-lô-môn, kẻ tôi tớ vua.
U kɵp kalilarni, bordaⱪ torpaⱪlar bilǝn ⱪoylarni soydurup, padixaⱨning ⱨǝmmǝ oƣullirini, Abiyatar kaⱨinni wǝ ⱪoxunning sǝrdari Yoabni qaⱪirdi. Lekin ⱪulliri Sulaymanni u qaⱪirmidi.
20 Oâi vua chúa tôi! cả Y-sơ-ra-ên đều xây mắt về vua, đợi vua cho họ biết ai là người kế vua phải ngồi trên ngai của vua, là chúa tôi.
Əmdi, i ƣojam padixaⱨ, pütkül Israilning kɵzliri siligǝ tikilmǝktǝ, ular ƣojam padixaⱨning ɵzliridin keyin tǝhtliridǝ kimning olturidiƣanliⱪi toƣrisida ularƣa hǝwǝr berixlirini kütixiwatidu;
21 Chẳng vậy, khi vua chúa tôi an giấc với các tổ phụ, thì tôi và con trai tôi là Sa-lô-môn sẽ bị xử như kẻ có tội.
bir ⱪararƣa kǝlmisilǝ, ƣojam padixaⱨ ɵz ata-bowiliri bilǝn billǝ uhlaxⱪa kǝtkǝndin keyin, mǝn bilǝn oƣlum Sulayman gunaⱨkar sanilip ⱪalarmizmikin, — dedi.
22 Bà đang còn tâu với vua, thì tiên tri Na-than đến.
Mana, u tehi padixaⱨ bilǝn sɵzlixip turƣinida Natan pǝyƣǝmbǝrmu kirip kǝldi.
23 Người ta đến thưa cùng vua rằng: Nầy có tiên tri Na-than. Na-than ra mắt vua, sấp mình xuống trước mặt người mà lạy.
Ular padixaⱨⱪa: — Natan pǝyƣǝmbǝr kǝldi, dǝp hǝwǝr bǝrdi. U padixaⱨning aldiƣa kiripla, yüzini yǝrgǝ yeⱪip turup padixaⱨⱪa tǝzim ⱪildi.
24 và nói rằng: Oâi vua chúa tôi! có phải vua đã phán rằng: A-đô-ni-gia sẽ trị vì kế ta và ngồi trên ngai ta, chăng?
Natan: — I ƣojam padixaⱨ, sili Adoniya mǝndin keyin padixaⱨ bolup mening tǝhtimdǝ olturidu, dǝp eytⱪanidilimu?
25 Thật vậy, ngày nay, người đã đi xuống giết bò, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cùng mời hết thảy các vương tử, quan tướng, và thầy tế lễ A-bia-tha; kìa, họ ăn uống tại trước mặt người, và la lên rằng: A-đô-ni-gia vạn tuế!
Qünki u bügün qüxüp, kɵp buⱪa, bordiƣan torpaⱪlar bilǝn ⱪoylarni soydurup, padixaⱨning ⱨǝmmǝ oƣullirini, ⱪoxunning sǝrdarlirini, Abiyatar kaⱨinni qaⱪirdi; wǝ mana, ular uning aldida yǝp-iqip: «Yaxisun padixaⱨ Adoniya!» — dǝp towlaxmaⱪta.
26 Còn tôi là kẻ tôi tớ vua, thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, và Sa-lô-môn, tôi tớ vua, thì người chẳng có mời.
Lekin ⱪulliri bolƣan meni, Zadok kaⱨinni, Yǝⱨoyadaning oƣli Binayani wǝ ⱪulliri bolƣan Sulaymanni u qaⱪirmidi.
27 Việc này há phải bởi vua chúa tôi mà ra? Và lại vua không cho các tôi tớ vua biết ai là người kế vua, phải ngồi trên ngai của vua chúa tôi.
Ƣojam padixaⱨ kimning ɵzliridin keyin ƣojam padixaⱨning tǝhtidǝ olturidiƣanliⱪini ɵz ⱪulliriƣa uⱪturmay u ixni buyrudilimu? — dedi.
28 Vua Đa-vít đáp rằng: Hãy gọi Bát-Sê-ba cho ta. Bà vào và đứng trước mặt vua.
Dawut padixaⱨ: — Bat-Xebani aldimƣa ⱪiqⱪiringlar, dedi. U padixaⱨning aldiƣa kirip, uning aldida turdi.
29 Đa-vít bèn thề mà rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã giải cứu mạng sống ta khỏi các hoạn nạn!
Padixaⱨ bolsa: — Jenimni ⱨǝmmǝ ⱪiyinqiliⱪtin ⱪutⱪuzƣan Pǝrwǝrdigarning ⱨayati bilǝn ⱪǝsǝm ⱪilimǝnki,
30 Ta nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà thề cùng ngươi rằng: Quả hẳn Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ trị vì kế ta, nó sẽ ngồi trên ngai thế cho ta; thì ngày nay ta sẽ làm hoàn thành điều đó.
mǝn ǝslidǝ Israilning Hudasi Pǝrwǝrdigar bilǝn sanga ⱪǝsǝm ⱪilip: «Sening oƣlung Sulayman mǝndin keyin padixaⱨ bolup ornumda mening tǝhtimdǝ olturidu» dǝp eytⱪinimdǝk, bügünki kündǝ mǝn bu ixni qoⱪum wujudⱪa qiⱪirimǝn, — dedi.
31 Bát-Sê-ba cúi mặt xuống đất và lạy trước mặt vua, mà tâu rằng: Nguyện vua Đa-vít, chúa tôi, vạn tuế!
Wǝ Bat-Xeba yüzini yǝrgǝ yeⱪip turup padixaⱨⱪa tǝzim ⱪilip: — Ƣojam Dawut padixaⱨ ǝbǝdiy yaxisun! — dedi.
32 Đoạn, vua Đa-vít nói: Hãy gọi cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa. Mấy người ấy bèn ra mắt vua.
Dawut padixaⱨ: — Zadok kaⱨinni, Natan pǝyƣǝmbǝrni, Yǝⱨoyadaning oƣli Binayani aldimƣa qaⱪiringlar, dedi. Ular padixaⱨning aldiƣa kǝldi.
33 Rồi vua nói với họ rằng: Hãy đem các đầy tớ của chủ các ngươi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, lên cỡi con la của ta, rồi đưa nó đến Ghi-hôn.
Padixaⱨ ularƣa: — Ƣojanglarning hizmǝtkarlirini ɵzünglarƣa ⱪoxup, Sulaymanni ɵz ⱪeqirimgǝ mindürüp, Giⱨonƣa elip beringlar;
34 ỳ đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than phải xức dầu cho người làm vua Y-sơ-ra-ên. Đoạn, các ngươi hãy thổi kèn lên mà hô rằng:
u yǝrdǝ Zadok kaⱨin bilǝn Natan pǝyƣǝmbǝr uni Israilning üstigǝ padixaⱨ boluxⱪa mǝsiⱨ ⱪilsun. Andin kanay qelip: — Sulayman padixaⱨ yaxisun! dǝp towlanglar.
35 Vua Sa-lô-môn vạn tuế! Các ngươi sẽ theo sau người trở lên, người sẽ đến ngồi trên ngai ta, và trị vì thế cho ta. Aáy là người mà ta đã lập làm vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
Andin u tǝhtimdǝ olturuxⱪa bu yǝrgǝ kǝlgǝndǝ, uningƣa ǝgixip menginglar; u mening ornumda padixaⱨ bolidu; qünki mǝn uni Israil bilǝn Yǝⱨudaning üstigǝ padixaⱨ boluxⱪa tǝyinlidim, — dedi.
36 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa tâu cùng vua rằng: A-men! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua chúa tôi, cũng phán định như vậy.
Yǝⱨoyadaning oƣli Binaya padixaⱨⱪa jawab berip: — Amin! Ƣojam padixaⱨning Hudasi Pǝrwǝrdigarmu xundaⱪ buyrusun!
37 Đức Giê-hô-va đã ở cùng vua chúa tôi thể nào, nguyện Ngài cũng ở cùng Sa-lô-môn thể ấy, và khiến ngôi người còn cao trọng hơn ngôi của vua Đa-vít, là chúa tôi!
Pǝrwǝrdigar ƣojam padixaⱨ bilǝn billǝ bolƣandǝk, Sulayman bilǝn billǝ bolup, uning tǝhtini ƣojam Dawut padixaⱨningkidin tehimu uluƣ ⱪilƣay! — dedi.
38 Đoạn, thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít, đều đi xuống, đỡ Sa-lô-môn lên cỡi con la của vua Đa-vít rồi đưa người đến Ghi-hôn.
Zadok kaⱨin, Natan pǝyƣǝmbǝr, Yǝⱨoyadaning oƣli Binaya wǝ Kǝrǝtiylǝr bilǝn Pǝlǝtiylǝr qüxüp, Sulaymanni Dawut padixaⱨning ⱪeqiriƣa mindürüp, Giⱨonƣa elip bardi.
39 Thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng dầu trong Đền tạm, và xức cho Sa-lô-môn. Người ta thổi kèn, cả dân sự đều hô lên rằng: Vua Sa-lô-môn vạn tuế!
Zadok kaⱨin ibadǝt qediridin may bilǝn tolƣan bir münggüzni elip, Sulaymanni mǝsiⱨ ⱪildi. Andin ular kanay qaldi. Hǝlⱪning ⱨǝmmisi: — Sulayman padixaⱨ yaxisun! — dǝp towlaxti.
40 Chúng đều theo người đi lên, thổi sáo, và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất rúng động bởi tiếng la của họ.
Hǝlⱪning ⱨǝmmisi uning kǝynidin ǝgixip, sunay qelip zor xadliⱪ bilǝn yǝr yerilƣudǝk tǝntǝnǝ ⱪilixti.
41 A-đô-ni-gia và hết thảy kẻ dự tiệc với mình đều nghe tiếng này khi vừa ăn xong. Lúc Giô-áp nghe tiếng kèn, thì nói: Sao trong thành có tiếng xôn xao ấy?
Əmdi Adoniya wǝ uning bilǝn jǝm bolƣan meⱨmanlar ƣizalinip qiⱪⱪanda, xuni anglidi. Yoab kanay awazini angliƣanda: — Nemixⱪa xǝⱨǝrdǝ xunqǝ ⱪiyⱪas-sürǝn selinidu? — dǝp soridi.
42 Người hãy còn nói, kìa Giô-na-than, con trai thầy tế lễ A-bia-tha, chợt đến. A-đô-ni-gia nói với người rằng: Hãy vào, vì ngươi là một tay dõng sĩ, chắc ngươi đem những tin lành.
U tehi sɵzini tügǝtmǝyla, mana Abiyatar kaⱨinning oƣli Yonatan kǝldi. Adoniya uningƣa: — Kirgin, ⱪǝysǝr adǝmsǝn, qoⱪum bizgǝ hux hǝwǝr elip kǝlding, — dedi.
43 Nhưng Giô-na-than đáp với A-đô-ni-gia rằng: Thật trái hẳn. Vua Đa-vít, chúa chúng ta, đã lập Sa-lô-môn làm vua.
Yonatan Adoniyaƣa jawab berip: — Undaⱪ ǝmǝs! Ƣojimiz Dawut padixaⱨ Sulaymanni padixaⱨ ⱪildi!
44 Vua có sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít cùng người Phê-lê-thít đi theo người, và họ đã đỡ người lên cỡi con la của vua.
Wǝ padixaⱨ ɵzi uningƣa Zadok kaⱨinni, Natan pǝyƣǝmbǝrni, Yǝⱨoyadaning oƣli Binayani wǝ Kǝrǝtiylǝr bilǝn Pǝlǝtiylǝrni ⱨǝmraⱨ ⱪilip ǝwitip, uni padixaⱨning ⱪeqiriƣa mindürdi;
45 Đoạn, tại Ghi-hôn, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho người làm vua; họ đã từ đó trở lên cách reo mừng, và cả thành đều vang động. Đó là tiếng xôn xao mà các ông đã nghe.
andin Zadok kaⱨin bilǝn Natan pǝyƣǝmbǝr uni padixaⱨ boluxⱪa Giⱨonda mǝsiⱨ ⱪildi. Ular u yǝrdin qiⱪip xadliⱪ ⱪilip, pütkül xǝⱨǝrni ⱪiyⱪas-sürǝn bilǝn lǝrzigǝ saldi. Siz anglawatⱪan sada dǝl xudur.
46 Lại, Sa-lô-môn đã ngồi trên ngôi nước;
Uning üstigǝ Sulayman ⱨazir padixaⱨliⱪ tǝhtidǝ olturiwatidu.
47 các tôi tớ của vua đến chúc phước cho vua Đa-vít, chúa chúng ta, mà tâu rằng: Nguyện Đức Chúa Trời của vua làm cho danh Sa-lô-môn tôn vinh hơn danh của vua, và khiến cho ngôi người cao trọng hơn ngôi của vua! Rồi vua cúi lạy nơi giường mình;
Yǝnǝ kelip padixaⱨning hizmǝtkarliri kelip ƣojimiz Dawut padixaⱨⱪa: «Hudaliri Sulaymanning namini siliningkidin ǝwzǝl ⱪilip, tǝhtini siliningkidin uluƣ ⱪilƣay!» dǝp bǝht tilǝp mubarǝklǝxkǝ kelixti. Padixaⱨ ɵzi yatⱪan orunda sǝjdǝ ⱪildi
48 và có nói như vầy: Đáng khen ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài có ban một người để ngồi trên ngôi của tôi mà mắt tôi xem thấy.
wǝ padixaⱨ: — «Bügün mening tǝhtimgǝ olturƣuqi birsini tǝyinligǝn, ɵz kɵzlirimgǝ xuni kɵrgüzgǝn Israilning Hudasi Pǝrwǝrdigar mubarǝklǝnsun!» — dedi — dedi.
49 Bấy giờ, hết thảy các người dự tiệc với A-đô-ni-gia đều bắt sợ hãi, đứng dậy, ai đi đường nấy.
Xuni anglap Adoniyaning barliⱪ meⱨmanliri ⱨoduⱪup, ornidin ⱪopup ⱨǝrbiri ɵz yoliƣa kǝtti.
50 A-đô-ni-gia cũng sợ Sa-lô-môn, đứng dậy, chạy nắm các sừng bàn thờ.
Adoniya bolsa Sulaymandin ⱪorⱪup, ornidin ⱪopup, [ibadǝt qediriƣa] berip ⱪurbangaⱨning münggüzlirini tutti.
51 Có người đến thuật cho Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ, mà nói rằng: Hôm nay, vua Sa-lô-môn hãy thề với tôi rằng vua sẽ không giết đầy tớ người bằng gươm.
Sulaymanƣa xundaⱪ hǝwǝr berilip: — «Adoniya Sulayman padixaⱨtin ⱪorⱪidu; qünki mana, u ⱪurbangaⱨning münggüzlirini tutup turup: — «Sulayman padixaⱨ bügün manga xuni ⱪǝsǝm ⱪilsunki, u ɵz ⱪulini ⱪiliq bilǝn ɵltürmǝslikkǝ wǝdǝ ⱪilƣay» dedi», — deyildi.
52 Sa-lô-môn đáp rằng: Nếu người ăn ở ra người tử tế, thì chẳng một sợi tóc nào của người sẽ rụng xuống đất; bằng có thấy sự ác nơi người, ắt người sẽ chết.
Sulayman: — U durus adǝm bolsa bexidin bir tal qaq yǝrgǝ qüxmǝydu. Lekin uningda rǝzillik tepilsa, ɵlidu, dedi.
53 Vua Sa-lô-môn sai kẻ đem người xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia đến sấp mình xuống trước mặt Sa-lô-môn; Sa-lô-môn bèn nói với người rằng: Hãy trở về nhà ngươi.
Sulayman padixaⱨ adǝm ǝwitip uni ⱪurbangaⱨdin elip kǝldi. U kelip Sulayman padixaⱨning aldida engixip tǝzim ⱪildi. Sulayman uningƣa: — Ɵz ɵyünggǝ kǝtkin, — dedi.