< Thánh Thi 22 >

1 Ðức Chúa Trời tôi ôi! Ðức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhơn sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siết tôi?
Anumzanimoke Anumzanimoke, na'a higenka kamefira hunenamine? Nazama huoguma kragima nerugenka, nahigenka naza osu afetera nemanine? (Matiu 27:46, Maki 15:34)
2 Ðức Chúa Trời tôi ôi! tôi kêu cầu ban ngày, nhưng Chúa chẳng đáp lại; Ban đêm cũng vậy, song tôi nào có được an nghỉ đâu
Anumzanimoka kagritega manigasa osuna mika knafina zagene haninena kagritega zavi krafagea nehuanagi, kagra antahi nonamine.
3 Còn Chúa là thánh, Ngài là Ðấng ngự giữa sự khen ngợi của Y-sơ-ra-ên.
Ana hu'neanagi kagra ruotage hu'nana Anumzankinka kini trakare mani'nanke'za Israeli vahe'mo'za kagia erihentesga neheze.
4 Tổ phụ chúng tôi nhờ cậy nơi Chúa, Họ nhờ cậy Chúa bèn giải cứu cho.
Korapara tagri tagehe'za Kagrite zamentintima hazagenka, zamagu'vazinka ete zamavare'nane.
5 Họ kêu cầu cùng Chúa, và được giải cứu; Họ nhờ cậy nơi Chúa, không bị hổ thẹn.
Kagritega zavi krafa hazagenka nentahinka, zamagu'vazi'nane. Ana nehanke'za kagrite zamentintia nehu'za zamagazegura osu'naze.
6 Nhưng tôi là một con trùng, chớ chẳng phải người đâu, Là điều ô nhục của loài người, và vật khinh dể của dân sự.
Hianagi nagra vaheknara osu'na hagirfagna vahe mani'noanki'za, maka kea nenasu'za zamefi hunenamize.
7 Hễ kẻ nào thấy tôi đều nhạo cười tôi. Trề môi, lắc đầu, mà rằng:
Maka vahe'mo'zama nenage'za, ki'za zokago ke hunenante'za, zamagefu'na hakana hunenami'za zamagena neru'za,
8 Người phú thác mình cho Ðức Giê-hô-va, Ngài khá giải cứu người; Ngài khá giải cứu người, vì Ngài yêu mến người!
zamagra amanage hu'za nehaze, Ra Anumzamofonte amuhara nehuno amentintia nehianki, atrenkeno Ra Anumzamo aguravazino, Agra aza hino hu'za nehaze. (Matiu 27:39, 43. Maki 15:29. Luku 23:35)
9 Phải, ấy là Chúa rút tôi khỏi lòng mẹ, Khiến tôi tin cậy khi nằm trên vú của mẹ tôi.
Ana hu'neanagi kagrake'za naza hanke'na antanimofo arimpafintira so'e hu'na atirami'noe. Ana nehunka osi'ma manine'na antanimofo amima nenoa knafina naza hankena namentintia kagritera hu'noe.
10 Từ trong tử cung tôi đã được giao cho Chúa; Chúa là Ðức Chúa Trời tôi từ khi tôi lọt lòng mẹ.
Antanimo'ma kasenante'nea knareti'ma eno menima ama knare'ma egenka, kagra kegava hunenantenka, kagra nagri Anumza mani'nane.
11 Xin chớ đứng xa tôi, vì sự gian truân hầu gần, Chẳng có ai tiếp cứu cho.
Nagrira natrenka afetera omanio, na'ankure knazamo'a tavaonte me'neankino, mago vahe'mo'e huno naza hugara osu'ne.
12 Có nhiều bò đực bao quanh tôi, Những bò đực hung mạnh của Ba-san vây phủ tôi.
Rama'a ha' vahe'mo'za ve bulimakao afu'mo'za nehazaza hu'za manikagi nante'naze. Ana vahe'mokizmi hankavemo'a Basani kazigama nemaniza ve bulimakao afutamimofo hankavezmimo'ma nehiaza huza mani kaginante'naze.
13 Chúng nó hả miệng ra cùng tôi, Khác nào sư tử hay cắn xé và gầm hét.
Nagri ha' vahe'mo'za laionimo agira aka huno mago'a zagagafa aheno nenaku krafa nehuno rotago nehiaza hu'za, nahenaku narotago nehaze.
14 Tôi bị đổ ra như nước, Các xương cốt tôi đều rời rã; Trái tim tôi như sáp, Tan ra trong mình tôi.
Tima eri tagi atregeno'ma hiaza huno hankavenimo'a omanegeno, zaferinanimo'a avazu hu'ne. Ana higeno tumoni'amo'a kragefe masavemo nehiaza huno nagu'afina ze'ze huno pakepake hu'ne.
15 Sức lực tôi khô như miếng gốm, Và lưỡi tôi dính nơi ổ gà; Chúa đã để tôi nằm trong bụi tro sự chết.
Zagere ante hagege hu'nea mopa kavomo tako hiankna huno hankavenimo'a omnegeno, nagefunamo'a navagu'nafare marerino antrako hu'ne. Ana higenka Anumzamoka kagra frio hunka natranke'na kugusopafina mase'noe.
16 Vì những chó bao quanh tôi, Một lũ hung ác vây phủ tôi; Chúng nó đâm lủng tay và chơn tôi;
Kramo hiaza hu'za ha' vahe'nimo'za mani kanegizageno kefo vahe'mo'za navazagi kagi'naze. Nazampine, nagiafinena rerapone'naze.
17 Tôi đếm được các xương tôi. Chúng nó xem và ngó chơn tôi;
Ana hazagena ana maka zaferinani'a hampri'na ke'noe. Hagi ha' vahe'nimo'za uruha nenage'za zamagu muse nehu'za orevumi arevumi hu'naze.
18 Chúng nó chia nhau áo xống tôi, Bắt thăm về áo dài tôi.
Ana nehu'za ana vahe'mo'za nagri kukena refko hu'za eri zamente hu'za eneri'za, nagri kukena erinaku satu zokago re'naze. (Matiu 27:35. Maki 15:24. Luku 23:34. Jon 19:24.)
19 Ðức Giê-hô-va ôi! chớ đứng xa tôi; Hỡi Ðấng cứu tiếp tôi ôi! hãy mau mau đến giúp đỡ tôi.
Hianagi kagra Ra Anumzamoka nagrira natrenka afetera omanio. Na'ankure kagra nagri hanave mani'nananki ame hunka enka eme naza huo.
20 Hãy giải cứu linh hồn tôi khỏi gươm, Và mạng sống tôi khỏi loài chó.
Nagu'vazinka naza huge'za vahe'mo'za kazintetira nahe ofriho. Kagra naza huge'za, knare'ma hu'na mani'nofintira kragna vahe'mo'za nahe ofriho.
21 Hãy cứu tôi khỏi họng sư tử, Từ các sừng của trâu rừng, Chúa đã nhậm lời tôi.
Laionimo'ma naheno nezama nehifintira naza nehunka, afi bulimakao afumo'ma pazivema nare'zama nefintira naza hunka nagu'vazio.
22 Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho anh em tôi, Và ngợi khen Chúa giữa hội chúng.
Nafu nagnahe'mokizmia Kagri kagia huama hu'na nezamasami'na, atruma hu'za mono'ma hanaza vahe amu'nompi oti'na kagia ahentesga hugahue. (Hibru 2:12)
23 Hỡi các người kính sợ Ðức Giê-hô-va, hãy ngợi khen Ngài; Ớ hết thảy dòng dõi Y-sơ-ra-ên, hãy kính sợ Ngài;
Hagi izagato Ra Anumzamofonku'ma koro'ma nehanamota, Agri agia ahentesga hiho. Ana maka Jekopu agehe'mota Agri agi'a ahentesga huta monora hunteho. Israeli agehe'mota Ra Anumzamofonku koro hunenteta, Agri agorga maniho.
24 Vì Ngài không khinh bỉ, chẳng gớm ghiếc sự hoạn nạn của kẻ khốn khổ, Cũng không giấu mặt Ngài cùng người; Nhưng khi người kêu cầu cùng Ngài, thì bèn nhậm lời.
Iza'zo zamatafima mani'ne'za zamagra'ama zamazama huga'ma nosaza vahera, Ra Anumzamo'a amefira hunozamie. Ana nehuno zamagritera ke amnea huno frara nokianki, iza'o aza hinogu'ma nunamuma huno zavi krafama huno antahigea vahera, nunamu'a antahimino aza nehie.
25 Sự ngợi khen của tôi tại giữa hội lớn do Chúa mà ra; Tôi sẽ trả xong sự hứa nguyện tôi trước mặt những kẻ kính sợ Chúa.
Hanki Ra Anumzamoka kagri vahe'mo'zama mono'ma hunaku'ma eme atru'ma hanafina, Kagra muse zanka'a nagu'afina ante avite'nanke'na kagri kagia ahentesga hugahue. Kagriku'ma koroma nehaza vahe zamavufi, ko'ma huvempama hu'na hugahuema hu'na hu'noa zantamina ana maka huvagaregahue.
26 Kẻ hiền từ sẽ ăn và được no nê; Những người tìm Ðức Giê-hô-va sẽ ngợi khen Ngài; Nguyện lòng các ngươi được sống đời đời.
Zamunte'ma omane vahe'mo'za ne'zana nezamu hugahaze. Ra Anumzamofonku'ma nehakesaza vahe'mo'za, Agri agia ahentesga hugahaze. Anama hanaza vahera Anumzamo'a vagaore museza antezmanteke'za, musena hu'za vugahaze.
27 Bốn phương thế gian sẽ nhớ và trở lại cùng Ðức Giê-hô-va; Các họ hàng muôn dân sự thờ lạy trước mặt Ngài.
Ama mopafima maka kazigama mani'naza vahe'mo'za Ra Anumzamoka kagrira antahi negami'za rukrahe hu'za kagritega egahaze. Ana nehanage'za ama mopafima mani'naza maka vahe'mo'za nagate nofite hu'za Kagri kagiafi zamarena eme re'za monora hugantegahaze.
28 Vì nước thuộc về Ðức Giê-hô-va, Ngài cai trị trên muôn dân.
Na'ankure Ra Anumzamo'a Agra'a kinia manino, maka ama mopafi vahera kegava hu'ne.
29 Hết thảy người giàu có thế gian cũng sẽ ăn và thờ lạy; Mọi kẻ trở lại bụi đất, và những kẻ không thế bảo tồn mạng sống mình, Sẽ quì xuống trước mặt Ngài.
Maka feno vahe'mo'za, ne'zana nene'za Ra Anumzamofona monora huntegahaze. Ana nehanage'za ana zanke hu'za frisaza vahe'ma mani'naza vahe'mo'za e'za, Ra Anumzamofo avuga zamarena eme re'za monora huntegahaze.
30 Một dòng dõi sẽ hầu việc Ngài; Người ta sẽ kể dòng dõi ấy là dòng dõi của Chúa.
Henkama fore'ma hu'za mani'zama vanaza vahe'mo'za Ra Anumzamoka kagri eri'zana eri'za nevanage'za, mofavretimo'za kaguvazama eri fore'ma hu'nana zamofo agenkea antahigahaze.
31 Dòng dõi ấy sẽ đến rao truyền sự công bình của Ngài, Thuật cho dân tộc sẽ sanh ra rằng Ðức Giê-hô-va đã làm việc ấy.
Hagi ana fatgo avu'avazama hu'nea zana nezmarera rimpafima mani'naza mofavre nagamokizmia nezamasamisnage'za, maka'zama eri fore'ma hu'nea zamofo agenkea antahigahaze.

< Thánh Thi 22 >