< Lu-ca 1 >
1 Hỡi Thê-ô-phi-lơ quí nhơn, vì có nhiều kẻ dốc lòng chép sử về những sự đã làm nên trong chúng ta,
Hagi Tiofolisiga, korapara rama'a vahe'mo'za zamazanu kre'za eritru hute'za, Anumzamo tagripi erifore hu'nea zamofo nanekea kre'naze.
2 theo như các người chứng kiến từ lúc ban đầu và trở nên người giảng đạo đã truyền lại cho chúng ta,
Ese agafare'ma Ramofo eri'za e'neri'za zamavunuma ke'naza vahe'mo'za, anama ke'nazaza krente'naza hunerasamizageta, ama ana naneke krente'none.
3 vậy, sau khi đã xét kỹ càng từ đầu mọi sự ấy, tôi cũng tưởng nên theo thứ tự viết mà tỏ ra cho ông,
Ana hu'negu ese agafare'ma fore'ma hige'za krente'naza zana, rezagane so'e hu'na kogeno knaretfa hunantege'na, anama hu'nea kante ante'na, knare ne'moka Tiofolisiga krenegamue.
4 để ông biết những điều mình đã học là chắc chắn.
E'i anazanku koma rempima hugamigenka antahinana tamage nanekea, nentahinka tamage huogu nehue.
5 Trong đời Hê-rốt, vua nước Giu-đê, có một thầy tế lễ, về ban A-bi-a, tên là Xa-cha-ri; vợ người là Ê-li-sa-bét, thuộc về chi phái A-rôn.
Hagi Herotima kinima Judia kaziga mani'nea knafina, mago pristi nera Zekaraia'e nehia nera, Abaiza nagapinti ne' mani'ne. Hagi nenaro agi'a Elisabeti'e, Aroni nagapinti efore hu'ne.
6 Cả hai đều là công bình trước mặt Ðức Chúa Trời, vâng giữ mọi điều răn và lễ nghi của Chúa một cách không chỗ trách được.
Ana aravemokea Anumzamofo avurera fatgo hu'ne ne' mani'ne, Ramofo maka kasegene tra kea amage nentene, mago havi avu'avara osuke, fatgo huke Ramofontera mani'na'e.
7 Hai người không có con, vì Ê-li-sa-bét son sẻ, và cả hai đều cao tuổi.
Hu'neangi mofavre onte'na'e. Na'ankure Elisabeti'a mofavre onteno naravo mani'gene tavava ozafa re'na'e.
8 Vả, Xa-cha-ri cứ theo thứ tự trong ban mình mà làm chức tế lễ trước mặt Ðức Chúa Trời.
Mago zupa Zekaraia ene ra mono nompi Anumzamofonte kre sramnavu pristi eri'za eneri'za naga'mo'za, zamagrama eri'zama eneri'za kna ege'za emetru hu'naze.
9 Khi đã bắt thăm theo lệ các thầy cả lập ra rồi, thì người được gọi vào nơi thánh của Chúa để dâng hương.
Hagi pristi vahe'mo'za koma zamuzmapina Kresramana vunaku taisi zokago razageno, iza agimo'ma e'amama himofo huntageno Ra Anumzamofo ra mono nompi ufreno Ramofonte Kresramana nevia kante, Zekaraina ana hu'za huntageno Kresramana mananentake'za hu'naku ufre'ne.
10 Ðương giờ dâng hương, cả đoàn dân đông đều ở ngoài cầu nguyện.
Hagi rama'a vahe'mo'za fegi'a ra mono no agu'afi manine'za, ana gnamofo agu'afina (hour) nunamu nehazageno agu'afina mananentake'zana Kresramana vu erizana eri'naze.
11 Bấy giờ có một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri, đứng bên hữu bàn thờ xông hương.
Magora Ramofo ankeromo kre sramnavu tra'mofona tmaga kaziga efore huno oti'ne.
12 Xa-cha-ri thấy thì bối rối sợ hãi.
Ana'ma higeno'a Zekaraiama ankeroma negeno'a, antri nehuno koro hu'ne.
13 Nhưng thiên sứ nói cùng người rằng: Hỡi Xa-cha-ri, đừng sợ, vì lời cầu nguyện ngươi đã được nhậm rồi. Ê-li-sa-bét vợ ngươi, sẽ sanh một con trai, ngươi khá đặt tên là Giăng.
Hianagi ankeromo'a anage huno hu'ne, Zekaraiaga korora osuo, na'ankure nunamunka'a Anumzamo'a antahi'neankino, neganaro Elisabeti'a mago ne'mofavre kasentegahie. Agi'a Joni'e hunka antemigahane.
14 Con trai đó sẽ làm cho ngươi vui mừng hớn hở, và nhiều kẻ sẽ mừng rỡ về sự sanh người ra.
Ana mofavre kasentenkeno krimpa so'e nehina muse hugahane. Hanki rama'a vahe'mo'za ana mofavrema kasente'nia kema antahisuza anazanke hu'za muse hugahaze.
15 Vì người sẽ nên tôn trọng trước mặt Chúa; không uống rượu hay là giống gì làm cho say, và sẽ được đầy dẫy Ðức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ.
Na'ankure Ramofo avurera ra vahe trohuno manigahie. Agra waini tine, hanave tinena onetfa hugahie. Na'ankure nerera rimpafi mani'nenigeno'a Ruotge Avamumo'a agu'afi fre avitegahie.
16 Người sẽ làm cho nhiều con trai Y-sơ-ra-ên trở lại cùng Chúa, là Ðức Chúa Trời của họ;
Ana mofavremo'a hakare Israeli vahe'mokizmi zamazeri rukrahe hinke'za, Rana Anumzazimire egahaze.
17 chính người lại sẽ lấy tâm thần quyền phép Ê-li mà đi trước mặt Chúa, để đem lòng cha trở về con cái, kẻ loạn nghịch đến sự khôn ngoan của người công bình, đặng sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng.
Ana nehuno agra Ramofona ugota huno nevuno, Elaija'ma eri'neankna hanavene avamu'ene enerino, afahemokizmia zamagu'a zamazeri rukrehe hina mofavrezmire ne-enageno keontahi vahe'mokizamia zamazeri rukrehe hinke'za kentahi vahe manisaza zamo'a, Ramo'ma esiazamofonka retro huntegahie. (Mal 4:5-6.)
18 Xa-cha-ri thưa rằng: Bởi sao tôi biết được điều đó? Vì tôi đã già, vợ tôi đã cao tuổi rồi.
Hanki Zekaraia anage huno ankeromofona asami'ne, nankna hanige'na nagra kena antahi'na hugahue? Nagra ozafa rogeno, a'nimo'a anahukna huno tavavate'ne higeno,
19 Thiên sứ trả lời rằng: Ta là Gáp-ri-ên, đứng rồi mặt Ðức Chúa Trời; Ngài đã sai ta đến truyền cho ngươi và báo tin mừng nầy.
ankeromo'a anage huno asami'ne, Nagra ankero ne' Gebrieline, Anumzamofo tava'onte nemanuankino, Anumzamo hunanteno, ama Knare Musenke erinka ome asamio huno hunantege'na, eme negasamue. (Den 8:16)
20 Nầy, ngươi sẽ câm, không nói được cho đến ngày nào các điều ấy xảy ra, vì ngươi không tin lời ta, là lời đến kỳ sẽ ứng nghiệm.
Hanki kagra kama antahio, knare ke negasamugenka kamentinti osanku, kagerura orunka mani'nenankeno ana kna forehina kea hugahane.
21 Bấy giờ, dân chúng đợi Xa-cha-ri, và lấy làm lạ, vì người ở lâu trong nơi thánh.
Hagi megi'a ra mono nompi Zekaraia avega mani'naza vahe'mo'za, agafa hu'za antahintahi hakare nehu'za, na'a higeno agru huno Ruotage hu'nea nompina zazakna nemanie hu'za hu'naze.
22 Khi Xa-cha-ri ra, không nói với chúng được, thì họ mới hiểu rằng người đã thấy sự hiện thấy gì trong đền thánh; người ra dấu cho họ, mà vẫn còn câm.
Hianagi agrama megia ne-eno'a kea eme huozami avame name hige'za, zamagrama zmagesama antahi'zana, mago'aza agru huno routage nompina efore higeno ke'ne hu'za hu'naze.
23 Khi những ngày về phần việc mình đã trọn, người trở về nhà.
Ra mono nompima kre sramnavu eriza kna'amo vagaregeno, atreno noma'arega vu'ne.
24 Khỏi ít lâu, vợ người là Ê-li-sa-bét chịu thai, ẩn mình đi trong năm tháng, mà nói rằng:
Hagi mago'agna evigeno, Elisabeti'a amu'ene huno mani frakino mani'negeno, 5fu'a ika enevigeno, amanage huno hu'ne.
25 Ấy là ơn Chúa đã làm cho tôi, khi Ngài đã đoái đến tôi, để cất sự xấu hổ tôi giữa mọi người.
Amazana Ramo asunku hunenanteno vahe'mo'zama mofavre onte a're hu'za nehu'za nagazema eri nenamiza zana eri atre'nante.
26 Ðến tháng thứ sáu, Ðức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê,
Elisabeti'a 6si'a ika amu'ene huno mani'negeno, mago ankeromofo agi'a Gebrieli'e nehimofo Anumzamo'a huntegeno, Galili kaziga osi kuma Nazaretie nehaza kumate uhanatino,
27 tới cùng một người nữ đồng trinh tên là Ma-ri, đã hứa gả cho một người nam tên là Giô-sép, về dòng vua Ða-vít.
Maria'a vene omase'nea mofara, Josefe Deviti negeho a' erigahie huza huhampriante'naza mofate uhanati'ne.
28 Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi; Chúa ở cùng ngươi.
Ana ankeromo'a Mariante ehanatino anage hu'ne, Knare kne Mariaga, Anumzamo'ma avesigantenemoka, Ramo'a kagrane mani'ne.
29 Ma-ri nghe nói thì bối rối, tự hỏi rằng lời chào ấy có nghĩa gì.
Hianagi ana mofa'mo'a, ana musenkema nentahino'a, antahintahi hakare nehuno, ama kea nankna agu'agesa me'nea musenke nehie huno hu'ne.
30 Thiên-sứ bèn nói rằng: Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Ðức Chúa Trời.
Ana higeno ankeromo'a ana mofamofonkura anage hu'ne, Korora osuo Mariaga, na'ankure Anumzamo'a kagrira antahi muse hunegante.
31 Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jêsus.
Hanki kama antahio, kagra kamu'ene hunka ne'mofavre kasentenka agi'a, Jisasi'e hunka antegahane.
32 Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Ðấng Rất Cao; và Chúa, là Ðức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Ða-vít là tổ phụ Ngài.
Ana mofavremo'a ra vahe fore nehinke'za vahe'mo'za, Marerisa Anumzamofo Mofavre nehnageno, negeho Deviti kini trara, Anumzamo'a eri aminigeno kini manigahie.
33 Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Gia-cốp, nước Ngài vô cùng. (aiōn )
Agra, Jekopu nagate kegava huzmante vava nehinkeno, kini eri'zama'amo ene Agrama kegava hania kumamo'a mevava hugahie. (aiōn )
34 Ma-ri bèn thưa rằng: Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó?
Maria'a anage huno ankeromofo asami'ne, Nagra venena omase'noanki inankna huno fore huku higenka nehane?
35 Thiên sứ truyền rằng: Ðức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Ðấng Rất Cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình, cho nên con thánh sanh ra, phải xưng là Con Ðức Chúa Trời.
Higeno ankeromo'a kenona'a anage huno asami'ne, Ruotge Avamumo kagrite ne-enkenka, Marerisa Anumzamofo hihamu'amo refitegantegahie. E'ina hu'negu ksentesana Mofavremo'a ruotge hanigeno, Anumzamofo mofavre hu'za hugahaze.
36 Kìa, Ê-li-sa-bét, bà con ngươi, cũng đã chịu thai một trai trong lúc già nua; người ấy vốn có tiếng là son, mà nay cưu mang được sáu tháng rồi.
Hanki ko, negamomo Elizabeti'a anahukna huno tavava'tefinka amu'ene hu'ne. Naravo a' manino mofavre onte are hu'nazanagi, menina amu'ene higeno' 6si'a ika agatere'ne.
37 Bởi vì không việc chi Ðức Chúa Trời chẳng làm được.
Na'ankure Anumzamofontera mago'zamo'e huno amuho osugahie.
38 Ma-ri thưa rằng: Tôi đây là tôi tớ Chúa; xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền! Ðoạn thiên sứ kìa khỏi Ma-ri.
Higeno Mari'a anage hu'ne, Izo nagra Ramofo kazokzo eri'za a' mani'noe. Hagi atregeno kema hanankante efore hino, higeno ankeromo'a atreno vu'ne.
39 Trong những ngày đó, Ma-ri chờ dậy, lật đật đi trong miền núi, đến một thành về xứ Giu-đa,
Ana knafina Maria'a agona kumatega ame huno otino Judia kaziga rankumate uhanatino,
40 vào nhà Xa-cha-ri mà chào Ê-li-sa-bét.
Zekaraia nompi umarerino, knare kne huno Elisabetina humuse huntene.
41 Vả, Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Ma-ri chào, con nhỏ trong lòng liền nhảy nhót; và Ê-li-sa-bét được đầy Ðức Thánh Linh,
Maria'ma knare kne huntea kema, Elisabeti'ma nentahigeno'a, rimpafi mani'nea mofavremo'a muse nehuno, haru huno marerigeno Ruotage Avamumo'a Elisabetina agu'afi frevite'ne.
42 bèn cất tiếng kêu rằng: Ngươi có phải trong đám đờn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước.
Ana higeno ana amo'a ranke huno, Maka a'nemofo asomura agatereno kagrira rama'a asomu Anumzamo'a huneganteno, karimpafima mani'nea mofavrea asomu huntene!
43 Nhơn đâu ta được sự vẻ vang nầy, là mẹ Chúa ta đến thăm ta?
Nagra iza'na mani'nogeno Ranimofo nerera'a, eno eme nage.
44 Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng.
Hanki antahio, kagra humuse hunka, anama knare kne hunka nehankena nentahugeno'a, narimpafi mani'nea mofavremo'a haru huno marenerino muse hu'ne.
45 Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!
Hagi Ramo'ma hu'nea kemofo kamentinti hanku, asomu hunegantena, anama hu'nea kemo'a, kagripi avufa'a efore hugahie.
46 Ma-ri bèn nói rằng: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Maria'a amanage hu'ne, Nagu'amo'a Ramofo ragi amigeno,
47 Tâm thần tôi mừng rỡ trong Ðức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi.
nagri avamunimo'a naguvazi Anumzamofo agafa huno muse huntene.
48 Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài. Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là có phước;
Na'ankure Agra anteramina kazokzo eriza vahe'ama mani'noana navu'navara nage'ne. Menima agafa huno vaniana maka vahe'mo'za Anumzamo'a asomu hunte'ne hu'za hugahaze.
49 Bởi Ðấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi. Danh Ngài là thánh,
Na'ankure Hihamu'ane Anumzamo'a raza hunante'ne, Agri agi'a ruotage hu'nemo'e.
50 Và Ngài thương xót kẻ kính sợ Ngài từ đời nầy sang đời kia.
Izazo Agriku koro hunentaza mokizmia Agra asuragizmanteno zamaza nehuno, zamagripinti efore hunante anante hanamokizmia anazanke huzmantegahie.
51 Ngài đã dùng cánh tay mình để tỏ ra quyền phép; Và phá tan mưu của kẻ kiêu ngạo toan trong lòng.
Ramo'a hanavenentake avu'avaza azanura eri fore nehuno, antahintahizmifima zamagima eri'za mareneri'za vahera zamahe panani hu'ne.
52 Ngài đã cách người có quyền khỏi ngôi họ, Và nhắc kẻ khiêm nhượng lên.
Agra hanave kini vahera, kini tratetira zamazuhu fenkama netreno, anteramiza nemaniza vahera ana kini trate zamavare ante'ne.
53 Ngài đã làm cho kẻ đói được đầy thức ăn ngon, Và đuổi kẻ giàu về tay không.
Zamagaku haza vahera, knare'zanu erivite'nezmanteno, fenomo avite'nea vahera, zamaza zamavapa huzmantege'za nevaze.
54 Ngài đã vùa giúp Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, Và nhớ lại sự thương xót mình.
Agra eri'za vahe'a Israeli vahe zamaza nehuno, asunku huzmantegahue huno huvempa hu'nea kegura agera nokanie.
55 Ðối với Áp-ra-ham cùng con cháu người luôn luôn, Như Ngài đã phán cùng tổ phụ chúng ta vậy. (aiōn )
Tahi'mofo koma mevava huvempa ke Abrahanku asamino, agehemo'ma fore hunante fore hunante knane knane hu'noma esia vahe zamaza huku hunte'ne. (aiōn )
56 Ma-ri với Ê-li-sa-bét chừng ba tháng, rồi trở về nhà mình.
Maria'a anage huno Elisabetina asamiteno, 3'a ika agranena maniteno noma'arega vu'ne.
57 Bấy giờ, đến ngày mãn nguyệt, Ê-li-sa-bét sanh được một trai.
Hagi Elisabeti'a mofavre kasentesia kna egeno, ne' mofavre kasente'ne.
58 Xóm riềng bà con nghe Chúa tỏ ra sự thương xót cả thể cho Ê-li-sa-bét, thì chia vui cùng người.
Ana a'mofo naga'mo'zane, agri kumapi naga'mo'za Ramofo asuntagizamo'ma Elisabetinte'ma eama hu'nea kema nentahiza rama'a musenkase agrane hu'naze.
59 Qua ngày thứ tám, họ đều đến để làm lễ cắt bì cho con trẻ; và đặt tên là Xa-cha-ri theo tên của cha.
Hagi 8 knazupa Mosese kasegemo'ma hu'nea kante ante'za avufa taga huku e'za, nefa agire Zekaraia'e huta agi'a asamresune hu'za hu'naze.
60 Nhưng mẹ nói rằng: Không! phải đặt tên con là Giăng.
Hianagi nerera'a kenona huno, Ama mofavre'mofo agi'a Joni'e huta antegahune higeno,
61 Họ nói: Trong bà con ngươi không ai có tên đó.
zamagra anage hu'naze. Tamagri nagapina mago'mofo agi'a Joni'e agine vahera omani'ne.
62 Họ bèn ra dấu hỏi cha muốn đặt tên gì cho con.
Hu'za nehu'za, nefana zamazanu avame'name hu'za iza'e hunka agi'a antegahane hu'za antahigageno,
63 Xa-cha-ri biểu lấy bảng nhỏ, và viết rằng: Giăng là tên nó. Ai nấy đều lấy làm lạ.
avontafe eritma eho huno azanu avame'name hige'za eri'za eme amizageno, agi'a Joni'e huno avonakre zamige'za nege'za antri hute'za, hakare zamagesa nentahizageno,
64 Tức thì miệng người mở ra, lưỡi được thong thả, nói và ngợi khen Ðức Chúa Trời.
ame huno Zekaraia agimo'a aka higeno, agefunamo'a agafa huno eri'za erigeno, Anumzamofo agi erisaga hu'ne.
65 Hết thảy xóm giềng đều kinh sợ, và người ta nói chuyện với nhau về mọi sự ấy khắp miền núi xứ Giu-đê.
Hagi ana higeno, anama megagi'nea kumate maka vahe'mokizimi tusi zamagogo nefege'za, maka Judia agona kumatega ana agenkea hugantugma hu'naze.
66 Ai nghe cũng ghi vào lòng mà nói rằng: Ấy vậy, con trẻ đó sẽ ra thể nào? Vì tay Chúa ở cùng con trẻ ấy.
Maka ana nanekema antahizamo'za zamagu'afi netre'za, anage hu'naze. Henka ama mofavremo'a nankna vahe manigahie? Na'ankure Anumzamofo hanavemo'a agrane me'ne.
67 Bấy giờ, Xa-cha-ri, cho con trẻ ấy, được đầy dẫy Ðức Thánh Linh, thì nói tiên tri rằng:
Hagi nefa, Zekeraiana Ruotge Avamumo agu'afi frevitegeno, amanage huno kasnampa kea hu'ne,
68 Ngợi khen Chúa, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Vì đã thăm viếng và chuộc dân Ngài,
Israeli vahe'mofo Rana, ra agi amisune. Agra'a vahe'a zamaza huno zamagu'vazinaku e'ne.
69 Cùng sanh ra cho chúng tôi trong nhà Ða-vít, tôi tớ Ngài, Một Ðấng Cứu thế có quyền phép!
Tagri Anumzamo'a, Agri eri'za vahe'a Deviti nagapinti hankavenentake ne' kefozampinti tahokeno taza hania ne' neramie.
70 Như lời Ngài đã dùng miệng các thánh tiên tri phán từ thuở trước, (aiōn )
Korapara Ramo'a ruotage kasnampa vahe'mofo zamagipi huvazino kea hu'ne. (aiōn )
71 Ngài cứu chúng tôi khỏi kẻ thù và tay mọi người ghen ghét chúng tôi;
Menina ha' vahetimofo azampinti taza nehuno, maka antahi haviza hurantesaza vahepintira taza hugahie.
72 Ngài tỏ lòng thương xót đến tổ tông chúng tôi, Và nhớ lại giao ước thánh của Ngài,
Amazama hiana tagehe'i asunku hunezmanteno, korapa ruotge hunea huhagerafino huvempage huno zamasmi'nea hanave kasegegu, agesa nentahino eriama nehie.
73 Theo như Ngài đã thề với Áp-ra-ham là tổ phụ chúng tôi,
Huvempa huhagerafi kema neregeho Abrahanku huntene.
74 Mà hứa rằng khi chúng tôi đã được cứu khỏi tay kẻ nghịch thù, Ngài sẽ ban ơn lành cho chúng tôi, trước một Ngài,
Ha' vahe'mofo zamazampintira tagu'vazinketa, koro osu manineta eri'zama'a erintegahune.
75 Lấy sự thánh khiết và công bình mà hầu việc Ngài, trọn đời mình không sợ hãi chi hết.
Mani ruotge nehuta, fatgo avu'ava huta tasimuma erita manisuna kna'afina Agri avurera hakare gna manivava hugahune.
76 Hỡi con trẻ, người ta sẽ kêu con là tiên tri của Ðấng Rất Cao; Con sẽ đi trước mặt Chúa, dọn đường Ngài,
Hagi kagra ama mofavre'moka, Marerisa Anumzamofo kasnampa vahere hugahaze. Na'ankure kagra Ramofona vugotenka Agri kana retro huntegahane.
77 Ðể cho dân Ngài bởi sự tha tội họ mà biết sự rỗi.
Kagra, Agri vahera Anumzamo'ma zamaguma vazino kumizimi eri apasezmante'nia kea zmasami'sanke'za, zamasunku hanageno zamagu'vazigahie. Agra monafi masa huntenigeno eme remsha hugahie.
78 Vì Ðức Chúa Trời chúng tôi động lòng thương xót, Và mặt trời mọc lên từ nơi cao thăm viếng chúng tôi,
Na'ankure Anumzamo'a avesiranteno fru avu'ava'ma hurantea zamo'a, nanterama zagemo monafinti hanatino remsa hiankna huno remsa hurantegahie.
79 Ðể soi những kẻ ngồi chỗ tối tăm và trong bóng sự chết, Cùng đưa chơn chúng tôi đi đường bình an.
Zamagrama hanimpi manine'za frizamofo turinapi mani'namokizmia masa nezamino, tagrira tazeri fatgo huno rimpa fru kante tavereno vugahie.
80 Vả, con trẻ ấy lớn lên, tâm thần mạnh mẽ, ở nơi đồng vắng cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Y-sơ-ra-ên.
Joni'ma ra huno avamupima hanavetiteno, ka'ma mopafi vuno umani'negeno, kna'a egeno Israeli vahepina eama hu'ne.