< Giăng 10 >
1 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, kẻ nào chẳng bởi cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào trước nơi khác, thì người đó là trộm cướp.
ⲁ̅ϩⲁⲙⲏⲛ ϩⲁⲙⲏⲛ ϯϫⲱ ⲙⲙⲟⲥ ⲛⲏⲧⲛ ϫⲉ ⲡⲉⲧⲉⲛϥⲛⲏⲩ ⲁⲛ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲓⲧⲙ ⲡⲣⲟ ⲉϩⲟⲩⲛ ⲉⲡⲟϩⲉ ⲛⲛⲉⲥⲟⲟⲩ ⲁⲗⲗⲁ ⲉϥⲟⲩⲱⲧⲃ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲓ ⲕⲉⲥⲁ ⲡⲉⲧⲙⲙⲁⲩ ⲟⲩⲣⲉϥϫⲓⲟⲩⲉ ⲁⲩⲱ ⲟⲩⲥⲟⲟⲛⲉ ⲡⲉ
2 Nhưng kẻ bởi cửa mà vào, là người chăn chiên.
ⲃ̅ⲡⲉⲧⲛⲏⲩ ⲇⲉ ⲛⲧⲟϥ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲓⲧⲙ ⲡⲣⲟ ⲛⲧⲟϥ ⲡⲉ ⲡϣⲱⲥ ⲛⲛⲉⲥⲟⲟⲩ
3 Người canh cửa mở cho chiên nghe tiếng người chăn; người chăn kêu tên chiên mình mà dẫn ra ngoài.
ⲅ̅ⲡⲁⲓ ϣⲁⲣⲉⲡⲉⲙⲛⲟⲩⲧ ⲟⲩⲱⲛ ⲛⲁϥ ⲁⲩⲱ ϣⲁⲣⲉⲛⲉⲥⲟⲟⲩ ⲥⲱⲧⲙ ⲉⲧⲉϥ ⲥⲙⲏ ⲁⲩⲱ ϣⲁϥⲙⲟⲩⲧⲉ ⲉⲛⲉϥⲉⲥⲟⲟⲩ ⲕⲁⲧⲁ ⲡⲉⲩⲣⲁⲛ ⲛϥⲛⲧⲟⲩ ⲉⲃⲟⲗ
4 Khi người đã đem chiên ra hết, thì đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người.
ⲇ̅ϩⲟⲧⲁⲛ ⲉϥϣⲁⲛⲉⲓⲛⲉ ⲉⲃⲟⲗ ⲛⲛⲉⲧⲉⲛⲟⲩϥ ⲧⲏⲣⲟⲩ ⲛⲉ ϣⲁϥⲙⲟⲟϣⲉ ϩⲁ ⲧⲉⲩϩⲏ ⲁⲩⲱ ϣⲁⲣⲉⲛⲉⲥⲟⲟⲩ ⲟⲩⲁϩⲟⲩ ⲛⲥⲱϥ ϫⲉ ⲥⲉⲥⲟⲟⲩⲛ ⲛⲧⲉϥⲥⲙⲏ
5 Nhưng chiên chẳng theo người lạ; trái lại nó chạy trốn, vì chẳng quen tiếng người lạ.
ⲉ̅ⲛⲛⲉⲩⲟⲩⲁϩⲟⲩ ⲇⲉ ⲛⲧⲟϥ ⲛⲥⲁ ⲟⲩϣⲙⲙⲟ ⲁⲗⲗⲁ ⲥⲉⲛⲁⲡⲱⲧ ⲉⲃⲟⲗ ⲙⲙⲟϥ ϫⲉ ⲛⲥⲉⲥⲟⲟⲩⲛ ⲁⲛ ⲛⲧⲉⲥⲙⲏ ⲛⲛϣⲙⲙⲟ
6 Ðức Chúa Jêsus phán lời ví dụ đó, nhưng chúng không hiểu Ngài muốn nói chi.
ⲋ̅ⲧⲉⲉⲓⲡⲁⲣϩⲟⲓⲙⲓⲁ ⲁϥϫⲟⲟⲥ ⲛⲁⲩ ⲛϭⲓ ⲓⲥ ⲛⲏ ⲇⲉ ⲙⲡⲟⲩⲉⲓⲙⲉ ϫⲉ ⲟⲩ ⲛⲉⲧϥϫⲱ ⲙⲙⲟⲟⲩ ⲛⲁⲩ
7 Ðức Chúa Jêsus lại phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta là cửa của chiên.
ⲍ̅ⲡⲉϫⲁϥ ϭⲉ ⲟⲛ ⲛⲁⲩ ⲛϭⲓ ⲓⲥ ϫⲉ ϩⲁⲙⲏⲛ ϩⲁⲙⲏⲛ ϯϫⲱ ⲙⲙⲟⲥ ⲛⲏⲧⲛ ϫⲉ ⲁⲛⲟⲕ ⲡⲉ ⲡϣⲱⲥ ⲛⲛⲉⲥⲟⲟⲩ
8 Hết thảy những kẻ đã đến trước ta đều là quân trộm cướp; nhưng chiên không nghe chúng nó.
ⲏ̅ⲟⲩⲟⲛ ⲛⲓⲙ ⲉⲛⲧⲁⲩⲉⲓ ϩⲉⲛⲣⲉϥϫⲓⲟⲩⲉ ⲛⲉ ⲁⲩⲱ ϩⲉⲛⲥⲟⲟⲛⲉ ⲛⲉ ⲁⲗⲗⲁ ⲙⲡⲉⲛⲉⲥⲟⲟⲩ ⲥⲱⲧⲙ ⲉⲣⲟⲟⲩ
9 Ta là cái cửa: nếu ai bởi ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ.
ⲑ̅ⲁⲛⲟⲕ ⲡⲉ ⲡⲣⲟ ⲉⲣϣⲁ ⲟⲩⲁ ⲃⲱⲕ ⲉϩⲟⲩⲛ ϩⲓⲧⲟⲟⲧ ϥⲛⲁⲟⲩϫⲁⲓ ⲁⲩⲱ ϥⲛⲁⲃⲱⲕ ⲉϩⲟⲩⲛ ⲛϥⲉⲓ ⲉⲃⲟⲗ ⲛϥϩⲉ ⲉⲩⲙⲁ ⲙⲙⲟⲟⲛⲉ
10 Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật.
ⲓ̅ⲡⲣⲉϥϫⲓⲟⲩⲉ ⲙⲉϥⲉⲓ ⲉⲧⲃⲉ ⲗⲁⲁⲩ ⲉⲓⲙⲏⲧⲓ ϫⲉⲕⲁⲥ ⲉϥⲉϩⲱϥⲧ ⲁⲩⲱ ⲛϥϣⲱⲱⲧ ⲁⲩⲱ ⲛϥⲧⲁⲕⲟ ⲁⲛⲟⲕ ⲛⲧⲁⲓⲉⲓ ϫⲉⲕⲁⲥ ⲉⲩⲉϫⲓ ⲛⲟⲩⲱⲛⲁϩ ⲁⲩⲱ ⲛⲥⲉϫⲓ ⲟⲩϩⲟⲩⲟ
11 Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình.
ⲓ̅ⲁ̅ⲁⲛⲟⲕ ⲡⲉ ⲡϣⲱⲥ ⲉⲧⲛⲁⲛⲟⲩϥ ⲡϣⲱⲥ ⲉⲧⲛⲁⲛⲟⲩϥ ϣⲁϥⲕⲁ ⲧⲉϥⲯⲩⲭⲏ ϩⲁ ⲛⲉϥⲉⲥⲟⲟⲩ
12 Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn, và chiên không phải thuộc về nó. Nếu thấy muôn sói đến thì nó bỏ chiên chạy trốn; muôn sói cướp lấy chiên và làm cho tản lạc.
ⲓ̅ⲃ̅ⲡϫⲁⲓ ⲃⲉⲕⲉ ⲇⲉ ⲉⲧⲉⲛⲟⲩϣⲱⲥ ⲁⲛ ⲡⲉ ⲡⲁⲓ ⲉⲧⲉⲛⲛⲟⲩϥ ⲁⲛ ⲛⲉ ⲛⲉⲥⲟⲟⲩ ϣⲁϥⲛⲁⲩ ⲉⲡⲟⲩⲱⲛϣ ⲉϥⲛⲏⲩ ⲁⲩⲱ ϣⲁϥⲕⲁ ⲛⲉⲥⲟⲟⲩ ⲛϥⲡⲱⲧ ⲁⲩⲱ ϣⲁⲣⲉ ⲡⲟⲩⲱⲛϣ ⲧⲟⲣⲡⲟⲩ ⲛϥϫⲟⲟⲣⲟⲩ
13 Ấy vì nó là kẻ chăn thuê, chẳng lo lắng chi đến chiên.
ⲓ̅ⲅ̅ⲉⲃⲟⲗ ϫⲉ ⲟⲩϫⲁⲓ ⲃⲉⲕⲉ ⲡⲉ ⲁⲩⲱ ⲙⲡⲉϥⲣⲟⲟⲩϣ ⲁⲛ ⲡⲉ ϩⲁ ⲛⲉⲥⲟⲟⲩ
14 Ta là người chăn chiên hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta,
ⲓ̅ⲇ̅ⲁⲛⲟⲕ ⲡⲉ ⲡϣⲱⲥ ⲉⲧⲛⲁⲛⲟⲩϥ ⲁⲩⲱ ϯⲥⲟⲟⲩⲛ ⲛⲛⲟⲩⲉⲓ ⲁⲩⲱ ⲛⲟⲩⲉⲓ ⲥⲟⲟⲩⲛ ⲙⲙⲟⲉⲓ
15 cũng như Cha biết ta và ta biết Cha vậy; ta vì chiên ta phó sự sống mình.
ⲓ̅ⲉ̅ⲕⲁⲧⲁ ⲑⲉ ⲉⲧⲉⲣⲉⲡⲓⲱⲧ ⲥⲟⲟⲩⲛ ⲙⲙⲟⲉⲓ ⲁⲛⲟⲕ ϩⲱ ϯⲥⲟⲟⲩⲛ ⲙⲡⲓⲱⲧ ⲁⲩⲱ ϯⲛⲁⲕⲱ ⲛⲧⲁⲯⲩⲭⲏ ϩⲁ ⲛⲁⲉⲥⲟⲟⲩ
16 Ta còn có chiên khác chẳng thuộc về chuồng này; ta cùng phải dẫn nó về nữa. Chiên đó sẽ nghe tiếng ta, rồi sẽ chỉ có một bầy, và một người chăn mà thôi.
ⲓ̅ⲋ̅ⲟⲩⲛⲧⲁⲓ ⲟⲛ ⲙⲙⲁⲩ ⲛϩⲉⲛⲕⲉⲉⲥⲟⲟⲩ ⲉⲛϩⲉⲛⲉⲃⲟⲗ ⲁⲛ ⲛⲉ ϩⲙ ⲡⲉⲓⲟϩⲉ ⲁⲩⲱ ⲛⲉⲧⲙⲙⲁⲩ ⲟⲛ ϩⲁⲡⲥ ⲉⲧⲣⲁⲥⲟⲟⲩϩⲟⲩ ⲁⲩⲱ ⲥⲉⲛⲁⲥⲱⲧⲙ ⲉⲧⲁⲥⲙⲏ ⲛⲥⲉϣⲱⲡⲉ ⲛⲟⲩⲟϩⲉ ⲛⲟⲩⲱⲧ ⲟⲩϣⲱⲥ ⲛⲟⲩⲱⲧ
17 Nầy, tại sao Cha yêu ta: Ấy vì ta phó sự sống mình để được lấy lại.
ⲓ̅ⲍ̅ⲉⲧⲃⲉ ⲡⲁⲓ ⲡⲁⲓⲱⲧ ⲙⲉ ⲙⲙⲟⲓ ϫⲉ ϯⲛⲁⲕⲱ ⲛⲧⲁⲯⲩⲭⲏ ϫⲉⲕⲁⲥ ⲟⲛ ⲉⲓⲉϫⲓⲧⲥ
18 Chẳng có ai cất sự sống ta đi, nhưng tự ta phó cho; ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha ta.
ⲓ̅ⲏ̅ⲙⲛ ⲗⲁⲁⲩ ϥⲓ ⲙⲙⲟⲥ ⲛⲧⲟⲟⲧ ⲁⲗⲗⲁ ⲁⲛⲟⲕ ⲉⲧⲕⲱ ⲙⲙⲟⲥ ϩⲁⲣⲟⲓ ⲙⲙⲁⲩⲁⲁⲧ ⲟⲩⲛϯ ⲧⲉⲝⲟⲩⲥⲓⲁ ⲉⲕⲁⲁⲥ ⲁⲩⲱ ⲟⲛ ⲟⲩⲛϯ ⲧⲉⲝⲟⲩⲥⲓⲁ ⲉϫⲓⲧⲥ ⲧⲉⲓⲉⲛⲧⲟⲗⲏ ⲛⲧⲁⲓϫⲓⲧⲥ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲓⲧⲙ ⲡⲁⲓⲱⲧ
19 Nhơn những lời đó người Giu-đa lại chia phe ra nữa.
ⲓ̅ⲑ̅ⲁⲩⲥⲭⲓⲥⲙⲁ ⲟⲛ ϣⲱⲡⲉ ϩⲛ ⲓⲟⲩⲇⲁⲓ ⲉⲧⲃⲉ ⲛⲉⲓϣⲁϫⲉ
20 Phần nhiều người trong đám họ nói rằng: Người bị quỉ ám, người là điên sao các ngươi nghe làm chi?
ⲕ̅ⲛⲉⲩⲛ ϩⲁϩ ⲇⲉ ϫⲱ ⲙⲙⲟⲥ ⲛϩⲏⲧⲟⲩ ϫⲉ ⲟⲩⲛ ⲟⲩⲇⲁⲓⲙⲟⲛⲓⲟⲛ ⲛⲙⲙⲁϥ ⲁⲩⲱ ϥⲗⲟⲃⲉ ⲉⲧⲃⲉ ⲟⲩ ⲧⲉⲧⲛⲥⲱⲧⲙ ⲉⲣⲟϥ
21 Kẻ khác nói rằng: Ấy đó chẳng phải là lời nói của một kẻ bị quỉ ám. Quỉ há có thể mở mắt kẻ mù được sao?
ⲕ̅ⲁ̅ϩⲉⲛⲕⲟⲟⲩⲉ ⲛⲉⲩϫⲱ ⲙⲙⲟⲥ ϫⲉ ⲛⲉⲓϣⲁϫⲉ ⲛⲁⲟⲩⲁ ⲁⲛ ⲛⲉ ⲉϥⲟ ⲛⲇⲁⲓⲙⲟⲛⲓⲟⲛ ⲙⲏ ⲟⲩⲛ ϭⲟⲙ ⲛⲟⲩⲇⲁⲓⲙⲟⲛⲓⲟⲛ ⲉⲩⲱⲛ ⲛⲃⲃⲁⲗ ⲛⲃⲃⲗⲗⲉ
22 Tại thành Giê-ru-sa-lem có giữ lễ Khánh Thành đền thờ. Bấy giờ là mùa đông;
ⲕ̅ⲃ̅ⲁϥϣⲱⲡⲉ ⲇⲉ ϩⲙ ⲡⲉⲩⲟⲓϣ ⲉⲧⲙⲙⲁⲩ ⲛϭⲓ ⲡϫⲓ ⲁⲉⲓⲕ ϩⲛ ⲑⲓⲉⲣⲟⲩⲥⲁⲗⲏⲙ ⲛⲉⲧⲉⲡⲣⲱ ⲧⲉ
23 Ðức Chúa Jêsus đi dạo trong đền thờ, dưới hiên cửa Sa-lô-môn.
ⲕ̅ⲅ̅ⲁⲩⲱ ⲛⲉϥⲙⲟⲟϣⲉ ⲛϭⲓ ⲓⲥ ϩⲙ ⲡⲉⲣⲡⲉ ϩⲁ ⲧⲉⲥⲧⲟⲁ ⲛⲥⲟⲗⲟⲙⲱⲛ
24 Người Giu-đa nhóm xung quanh Ngài mà nói rằng: Thầy để chúng tôi nghĩ vơ vẫn mãi cho đến khi nào? Nếu thầy là Ðấng Christ, hãy nói rõ cho chúng tôi.
ⲕ̅ⲇ̅ⲁⲩⲕⲱⲧⲉ ϭⲉ ⲉⲣⲟϥ ⲛϭⲓ ⲛⲓⲟⲩⲇⲁⲓ ⲁⲩⲱ ⲡⲉϫⲁⲩ ⲛⲁϥ ϫⲉ ϣⲁ ⲧⲛⲁⲩ ⲕϥⲓ ⲙⲡⲉⲛϩⲏⲧ ⲉϣϫⲉ ⲛⲧⲟⲕ ⲡⲉ ⲡⲉⲭⲥ ⲁϫⲓⲥ ⲛⲁⲛ ϩⲛ ⲟⲩⲡⲁⲣⲣⲏⲥⲓⲁ
25 Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta đã bảo các ngươi, mà các ngươi không tin; những việc ta nhơn danh Cha ta mà làm đều làm chứng cho ta.
ⲕ̅ⲉ̅ⲁϥⲟⲩⲱϣⲃ ⲛⲁⲩ ⲛϭⲓ ⲓⲥ ϫⲉ ⲁⲉⲓϫⲟⲟⲥ ⲛⲏⲧⲛ ⲁⲩⲱ ⲛⲧⲉⲧⲛⲡⲓⲥⲧⲉⲩⲉ ⲁⲛ ⲛⲉϩⲃⲏⲩⲉ ⲁⲛⲟⲕ ⲉϯⲉⲓⲣⲉ ⲙⲙⲟⲟⲩ ϩⲙ ⲡⲣⲁⲛ ⲙⲡⲁⲓⲱⲧ ⲛⲁⲓ ⲛⲉⲧⲣ ⲙⲛⲧⲣⲉ ⲉⲧⲃⲏⲏⲧ
26 Nhưng các ngươi không tin ta, vì các ngươi chẳng phải là chiên của ta.
ⲕ̅ⲋ̅ⲁⲗⲗⲁ ⲛⲧⲱⲧⲛ ⲛⲧⲉⲧⲛⲡⲓⲥⲧⲉⲩⲉ ⲁⲛ ϫⲉ ⲛⲧⲉⲧⲛ ϩⲉⲛⲉⲃⲟⲗ ⲁⲛ ϩⲛ ⲛⲁⲉⲥⲟⲟⲩ
27 Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta.
ⲕ̅ⲍ̅ⲛⲁⲉⲥⲟⲟⲩ ⲁⲛⲟⲕ ϣⲁⲩⲥⲱⲧⲙ ⲉⲧⲁⲥⲙⲏ ⲁⲩⲱ ϯⲥⲟⲟⲩⲛ ⲙⲙⲟⲟⲩ ⲁⲩⲱ ⲥⲉⲛⲁⲟⲩⲁϩⲟⲩ ⲛⲥⲱⲉⲓ
28 Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta. (aiōn , aiōnios )
ⲕ̅ⲏ̅ⲁⲩⲱ ⲁⲛⲟⲕ ϯⲛⲁϯ ⲛⲁⲩ ⲛⲟⲩⲱⲛϩ ϣⲁ ⲉⲛⲉϩ ⲁⲩⲱ ⲛⲛⲉⲩϩⲉ ⲉⲃⲟⲗ ⲉⲛⲉϩ ⲁⲩⲱ ⲛⲛⲉⲗⲁⲁⲩ ⲧⲟⲣⲡⲟⲩ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲛ ⲧⲁϭⲓϫ (aiōn , aiōnios )
29 Cha ta là Ðấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha.
ⲕ̅ⲑ̅ⲡⲁⲓⲱⲧ ⲉⲛⲧⲁϥⲧⲁⲁⲩ ⲛⲁⲓ ϥϩⲓϫⲛ ⲟⲩⲟⲛ ⲛⲓⲙ ⲁⲩⲱ ⲙⲛ ϣϭⲟⲙ ⲗⲗⲁⲁⲩ ⲉⲧⲟⲣⲡⲟⲩ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲛ ⲧϭⲓϫ ⲙⲡⲁⲓⲱⲧ
ⲗ̅ⲁⲛⲟⲕ ⲙⲛ ⲡⲁⲉⲓⲱⲧ ⲁⲛⲟⲛ ⲟⲩⲁ
31 Người Giu-đa lại lượm đá đặng ném Ngài
ⲗ̅ⲁ̅ⲁⲩϥⲓ ⲱⲛⲉ ⲟⲛ ⲛϭⲓ ⲛⲓⲟⲩⲇⲁⲓ ϫⲉⲕⲁⲥ ⲉⲩⲉⲛⲟⲩϫⲉ ⲉⲣⲟϥ
32 Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta đã làm trước mắt các ngươi lắm việc lành bởi Cha đến; vì việc chi mà các ngươi ném đã ta?
ⲗ̅ⲃ̅ⲁϥⲟⲩⲱϣⲃ ⲛⲁⲩ ⲛϭⲓ ⲓⲥ ϫⲉ ⲁⲓⲧⲥⲁⲃⲱⲧⲛ ⲉϩⲁϩ ⲛϩⲱⲃ ⲉⲛⲁⲛⲟⲩ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲓⲧⲙ ⲡⲁⲓⲱⲧ ⲉⲧⲃⲉ ⲁϣ ⲙⲙⲟⲟⲩ ⲛϩⲱⲃ ⲧⲉⲧⲛϩⲓ ⲱⲛⲉ ⲉⲣⲟⲓ
33 Người Giu-đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lời lộng ngôn: ngươi là người, mà tự xưng là Ðức Chúa Trời.
ⲗ̅ⲅ̅ⲁⲩⲟⲩⲱϣⲃ ⲛⲁϥ ⲛϭⲓ ⲛⲓⲟⲩⲇⲁⲓ ϫⲉ ⲛⲛⲉⲛⲛⲁϩⲓ ⲱⲛⲉ ⲁⲛ ⲉⲣⲟⲕ ⲉⲧⲃⲉ ϩⲱⲃ ⲉⲛⲁⲛⲟⲩϥ ⲁⲗⲗⲁ ⲉⲧⲃⲉ ϫⲓⲟⲩⲁ ϫⲉ ⲛⲧⲟⲕ ⲉⲛⲧⲕ ⲟⲩⲣⲱⲙⲉ ⲕⲉⲓⲣⲉ ⲙⲙⲟⲕ ⲛⲛⲟⲩⲧⲉ
34 Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Trong luật pháp của các ngươi há chẳng chép rằng: Ta đã phán: Các ngươi là các thần, hay sao?
ⲗ̅ⲇ̅ⲁϥⲟⲩⲱϣⲃ ⲛⲁⲩ ⲛϭⲓ ⲓⲥ ϫⲉ ⲙⲏ ⲛϥⲥⲏϩ ⲁⲛ ϩⲙ ⲡⲉⲧⲛⲛⲟⲙⲟⲥ ϫⲉ ⲁⲛⲟⲕ ⲁⲓϫⲟⲟⲥ ϫⲉ ⲛⲧⲉⲧⲛ ϩⲉⲛⲛⲟⲩⲧⲉ
35 Nếu luật pháp gọi những kẻ được lời Ðức Chúa Trời phán đến là các thần, và nếu Kinh Thánh không thể bỏ được,
ⲗ̅ⲉ̅ⲉϣϫⲉ ⲁⲩⲙⲟⲩⲧⲉ ⲉⲛⲉⲧⲙⲙⲁⲩ ϫⲉ ⲛⲟⲩⲧⲉ ⲛⲁⲓ ⲉⲛⲧⲁⲡϣⲁϫⲉ ⲙⲡⲛⲟⲩⲧⲉ ϣⲱⲡⲉ ϣⲁⲣⲟⲟⲩ ⲁⲩⲱ ⲙⲙⲛ ϭⲟⲙ ⲛⲧⲉⲧⲉⲅⲣⲁⲫⲏ ⲃⲱⲗ ⲉⲃⲟⲗ
36 thì ta đây, là Ðấng Cha đã biệt ra thánh, và sai xuống thế gian, nói: Ta là Con Ðức Chúa Trời, cớ sao các ngươi cáo ta là nói lộng ngôn?
ⲗ̅ⲋ̅ⲉⲓⲉ ⲡⲉⲛⲧⲁⲡⲓⲱⲧ ⲧⲃⲃⲟϥ ⲁϥⲧⲛⲛⲟⲟⲩϥ ⲉⲡⲕⲟⲥⲙⲟⲥ ⲛⲧⲱⲧⲛ ⲧⲉⲧⲛϫⲱ ⲙⲙⲟⲥ ϫⲉ ⲕϫⲉ ⲟⲩⲁ ϫⲉ ⲁⲓϫⲟⲟⲥ ϫⲉ ⲁⲛⲅ ⲡϣⲏⲣⲉ ⲙⲡⲛⲟⲩⲧⲉ
37 Ví bằng ta không làm những việc của Cha ta, thì các ngươi chớ tin ta.
ⲗ̅ⲍ̅ⲉϣϫⲉ ⲛϯⲉⲓⲣⲉ ⲁⲛ ⲛⲛⲉϩⲃⲏⲩⲉ ⲙⲡⲁⲓⲱⲧ ⲙⲡⲣⲡⲓⲥⲧⲉⲩⲉ ⲉⲣⲟⲉⲓ
38 Còn nếu ta làm, thì, dầu các ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta, để các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha.
ⲗ̅ⲏ̅ⲉϣϫⲉ ϯⲉⲓⲣⲉ ⲇⲉ ⲙⲙⲟⲟⲩ ⲕⲁⲛ ⲉⲧⲉⲧⲛⲧⲙⲡⲓⲥⲧⲉⲩⲉ ⲉⲣⲟⲉⲓ ⲡⲓⲥⲧⲉⲩⲉ ⲉⲛⲉϩⲃⲏⲩⲉ ϫⲉⲕⲁⲥ ⲉⲧⲉⲧⲛⲉⲉⲓⲙⲉ ⲁⲩⲱ ⲛⲧⲉⲧⲛⲥⲟⲟⲩⲛ ϫⲉ ⲡⲓⲱⲧ ϣⲟⲟⲡ ϩⲣⲁⲓ ⲛϩⲏⲧ ⲁⲩⲱ ⲁⲛⲟⲕ ϯϩⲙ ⲡⲓⲱⲧ
39 Chúng còn kiếm cách để bắt Ngài nữa; nhưng Ngài tránh khỏi tay họ.
ⲗ̅ⲑ̅ⲛⲉⲩϣⲓⲛⲉ ϭⲉ ⲟⲛ ⲛⲥⲁ ϭⲟⲡϥ ⲁⲩⲱ ⲁϥⲉⲓ ⲉⲃⲟⲗ ϩⲛ ⲧⲉⲩϭⲓϫ
40 Ðoạn, Ngài lại sang bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm phép báp tem trước hết, và trú tại đó.
ⲙ̅ⲁϥⲃⲱⲕ ⲟⲛ ⲉⲡⲓⲕⲣⲟ ⲙⲡⲓⲟⲣⲇⲁⲛⲏⲥ ⲡⲙⲁ ⲉⲛⲉⲣⲉⲓⲱϩⲁⲛⲛⲏⲥ ⲛϩⲏⲧϥ ⲛϣⲟⲣⲡ ⲉϥⲃⲁⲡⲧⲓⲍⲉ ⲁⲩⲱ ⲁϥϭⲱ ⲙⲙⲁⲩ
41 Có nhiều kẻ đến cùng Ngài, mà nói rằng: Giăng chưa làm một phép lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người nầy là thật.
ⲙ̅ⲁ̅ⲁⲩⲙⲏⲏϣⲉ ⲃⲱⲕ ϣⲁⲣⲟϥ ⲁⲩⲱ ⲛⲉⲩϫⲱ ⲙⲙⲟⲥ ϫⲉ ⲓⲱϩⲁⲛⲛⲏⲥ ⲙⲉⲛ ⲙⲡϥⲣ ⲗⲁⲁⲩ ⲙⲙⲁⲓⲛ ϣⲁϫⲉ ⲇⲉ ⲛⲓⲙ ⲉⲛⲧⲁⲓⲱϩⲁⲛⲛⲏⲥ ϫⲟⲟⲩ ⲉⲧⲃⲉ ⲡⲁⲓ ϩⲉⲛⲙⲉ ⲛⲉ ⲁⲩⲱ ⲁϩⲁϩ ⲡⲓⲥⲧⲉⲩⲉ ⲉⲣⲟϥ ϩⲙ ⲡⲙⲁ ⲉⲧⲙⲙⲁⲩ
42 Tại đó có nhiều người tin Ngài.
ⲙ̅ⲃ̅