< Sáng Thế 24 >
1 Vả, Áp-ra-ham đã già, tuổi đã cao; trong mọi việc Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho người.
Abraham uanale na naruꞌ losa namalasi nala seli. LAMATUALAIN nanea e malolole, ma fee ne nasodꞌa no mole dame.
2 Áp-ra-ham nói cũng người đầy tớ ở lâu hơn hết trong nhà mình, có quyền quản trị các gia tài, mà rằng: Xin hãy đặt tay lên đùi ta,
Abraham ate nemehere na esa, tao mataꞌ neu hata-heto nara. Lao esa, Abraham noꞌe e nae, “Rena malolole! Au oꞌe ho sumba mendiꞌ LAMATUALAIN nara na. Lamatualain mana tao lalai no raefafoꞌ a. Mae, ho afiꞌ haꞌi inaꞌ mia atahori Kanaꞌan ra, fo muꞌusasaoꞌ no ana ngga Isak.
3 và ta sẽ biểu ngươi chỉ Ðức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của trời và đất, mà thề rằng: ngươi không cưới một cô nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, tức giữa dân ấy ta trú ngụ, làm vợ cho con trai ta.
4 Nhưng hãy đi về quê hương ta, trong vòng bà con ta, cưới một người vợ cho Y-sác, con trai ta.
Musi muu sia au nusa ngga, sia au bobꞌonggi nggara. Sangga ana fetoꞌ esa sia naa, fo taꞌasasaoꞌ no ana ngga.”
5 Người đầy tớ thưa rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về xứ nầy; vậy, có phải tôi dẫn con trai ông đến xứ mà ông đã ra đi khỏi chăng?
Basa de ate naa natane Abraham nae, “Malole, Amaꞌ! Te mete ma ana fetoꞌ a nda nau nema sa, naa taꞌo bee? Au musi o amaꞌ anan fo sao sia naa, do, taꞌo bee?”
6 Áp-ra-ham nói rằng: Hãy cẩn thận, đừng dẫn con ta về xứ đó!
Abraham nataa nae, “Musunedꞌa malolole! Mae taꞌo bee o, afiꞌ mo ana ngga naa neu!
7 Giê-hô-va Ðức Chúa Trời trên trời, là Ðấng đã đem ta ra khỏi nhà cha ta và xứ sở ta, có phán và thề rằng: Ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy! Chánh Ngài sẽ sai thiên sứ đi trước ngươi, và nơi đó ngươi hãy cưới một vợ cho con trai ta.
Musunedꞌa te LAMATUALAIN mana toꞌu koasa sia lalai no raefafoꞌ a, no au lao hela nusa ngga, de nendi au losa rae ia. Ana tao hehelu-fufuliꞌ no au nae, ‘Dei fo Au fee basa rae ia neu tititi-nonosi ma.’ Dadꞌi afiꞌ hia-bii! Muu neuꞌ ena. Dei fo Lamatualain denu ate Na mia sorga nema soi dalaꞌ fee nggo, fo mundaa mo ana fetoꞌ mana nae dadꞌi ana ngga sao na.
8 Nếu người con gái không khứng theo, thì ngươi sẽ khỏi mắc lời của ta biểu ngươi thề; mà dẫu thế nào đi nữa, chớ đem con ta về chốn đó.
Te mete ma ana fetoꞌ naa nda nau tungga nema sa, naa susumbaꞌ ia nda dai nggo sa. Mae taꞌo bee o, afiꞌ mo ana ngga naa neu.”
9 Ðoạn, người đầy tớ để tay lên đùi Áp-ra-ham chủ mình, và thề sẽ làm theo như lời người đã dặn biểu.
Boe ma, ate a sumba no Abraham, nae eni tao tungga basa Abraham hihii-nanau na.
10 Ðoạn, người đầy tớ bắt mười con lạc đà trong bầy của chủ mình, đem theo đủ các tài vật của chủ đã giao, rồi đứng dậy đi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi, đến thành của Na-cô.
Basa naa ma, ana here nala onta sanahulu, de no atahori nara fua sudꞌi a saa meulauꞌ ra reu banda onta ra ata. De lao risiꞌ Nahor kambo na sia Mesopotamia.
11 Người cho lạc đà nằm quì gối xuống nghỉ ở ngoài thành, gần bên một giếng kia, vào buổi chiều, đến giờ của những con gái ra đi xách nước.
Neu mateꞌe na, ate a losa kamboꞌ naa. Ana fee banda onta ra hahae deka oe mataꞌ esa, sia kamboꞌ a suu na. Leleꞌ naa bobꞌoꞌ ena, de ana fetoꞌ ra reu hando oe sia oe mataꞌ a.
12 Người nói rằng: Hỡi Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi ơi! xin ngày nay cho tôi gặp điều mà tôi tìm kiếm, và hãy làm ơn cho chủ Áp-ra-ham tôi!
Boe ma ate a hule-oꞌe nae, “LAMATUALAIN, malangga ngga Abraham Lamatua na. Tulun soi dalaꞌ, fo leleo-lalao ngga ia, hambu maloleꞌ. Mutudꞌu rala malole Ma neu malangga ngga, ma musunedꞌa hehelu-fufuli na neu au. Naa fo, undaa o ana fetoꞌ fo mana nae dadꞌi Isak sao na.
13 Nầy, tôi đứng gần bên giếng nầy, các con gái của dân trong thành sẽ ra đi xách nước,
Lamatualain, au umburiꞌ sia oe mataꞌ suu na ia. Ana fetoꞌ mia kamboꞌ ia ra rema hando oe sia ia.
14 xin cho người gái trẻ nào mà tôi nói như vầy: "Xin nàng hãy nghiêng bình, cho tôi uống nhờ hớp nước," mà nàng trả lời rằng: "Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho các lạc đà ngươi uống nữa," là chánh người mà Chúa đã định cho Y-sác, kẻ tôi tớ người; và nhờ đó tôi sẽ biết rằng Chúa đã làm ơn cho chủ tôi vậy.
Dadꞌi au oꞌe taꞌo ia: Mete ma au olaꞌ o ana fetoꞌ esa ae, ‘Ana fetoꞌ e! Muꞌondaꞌ hura oe ma fo au inu mbei dei.’ Mete ma nataa nae, ‘Amaꞌ minu leo! Ma au o fee banda onta mara rinu boe.’ Naa, dadꞌi bukti, ana fetoꞌ naa Lamatualain dudꞌu basa dadꞌi Isak sao na! No taꞌo naa, au uhine, Lamatualain mutudꞌu malole ma neu malangga ngga Abraham ena.”
15 Người đầy tớ chưa dứt lời, nầy, nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra. Nàng là con gái của Bê-tu-ên, Bê-tu-ên là con trai của Minh-ca, vợ Na-cô, em trai của Áp-ra-ham.
Ana nda feꞌe hule-oꞌe basa sa, te ana fetoꞌ esa naran, Ribka, nema. Eni, Abraham odꞌin Nahor no sao na Milka umbu na. Ribka ama na, naran Betuel. Ribka, meulau na seli, ma feꞌe nda nasalaꞌ no touꞌ ra sa. Ana onda oe mataꞌ neu, nadꞌai hura oe na, de hene baliꞌ.
16 Người gái trẻ đó thật rất đẹp, còn đồng trinh, chưa gả cho ai. Nàng xuống giếng nhận đầy bình nước, rồi trở lên.
17 Ðầy tớ bèn chạy lại trước mặt nàng và nói rằng: Xin hãy cho tôi uống một hớp nước trong bình.
Ribka losa ataꞌ ma, Abraham ate na nelaꞌ neu. Ana noꞌe nae, “Ana fetoꞌ. Fee au inu mbei dei.”
18 Nàng đáp rằng: Thưa chúa, hãy uống đi; rồi nàng lật đật đỡ bình xuống tay và cho người uống.
Ana fetoꞌ a nataa nae, “Minu leo, toꞌo!” Ana naꞌondaꞌ hura oe na lai-lai, de fee ate a ninu.
19 Khi đỡ cho người uống xong rồi, nàng lại tiếp rằng: Tôi cũng sẽ xách cho mấy con lạc đà chúa uống nữa, chừng nào uống đã thì thôi.
Ana ninu basa ma, ana fetoꞌ a nae, “Au hando oe fee toꞌo banda onta nara, fo rinu raꞌabeta boe.”
20 Nàng lật đật đổ nước bình ra máng, chạy xuống giếng xách nước thêm nữa cho hết thảy các con lạc đà uống.
Ana oni oe sisaꞌ neu banda onta ra mamana nininu nara, ma nelaꞌ neu hando seluꞌ oe sia oe mataꞌ fo hani banda onta naa ra, losa raꞌabeta.
21 Còn người ngồi làm thinh mà nhìn nàng, để cho biết Ðức Giê-hô-va làm thành công việc mình đi đây hay chăng.
Abraham ate na nambariiꞌ hie-hie, mete namemeu ana fetoꞌ a tatao na. Ana dudꞌuꞌa nae, “Ana fetoꞌ ia, Lamatualain hii nalaꞌ a, do?”
22 Khi lạc đà vừa thôi uống, người đầy tớ bèn lấy một khoanh vàng nặng được nửa siếc-lơ và đôi xuyến nặng được mười siếc-lơ,
Basa banda onta naa ra rinu losa raꞌabeta. Boe ma ate a fee Ribka bꞌua mafelit fo ana fetoꞌ ra biasa pake. Ana fee ndeli liloꞌ fo nato neu mbana na, ma kale liloꞌ pasan esa, fo olu neu lima nara.
23 mà nói rằng: Nàng là con ai? xin nói cho tôi biết. Trong nhà cha nàng có chỗ nào cho tôi ở nghỉ ban đêm chăng?
Basa ma, ana natane nae, “Ana fetoꞌ e! Ho ama ma, nara na se? Mete ma nau, naa, au sungguꞌ sia ama ma ume na.”
24 Nàng đáp rằng: Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu nội của Minh-ca và Na-cô.
Ana fetoꞌ a nataa nae, “Ama ngga, naran Betuel. Baꞌi ngga, naran Nahor ma nene ngga, Milka.
25 Rồi lại nói: Nhà chúng tôi có nhiều rơm và cỏ, và cũng có chỗ để cho ở nghỉ nữa.
Sia hai ume ma mamana susungguꞌ dai toꞌo se. Uru o naeꞌ fee toꞌo se banda nara boe.”
26 Người bèn cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va,
Basa ma, ate a beꞌutee neu LAMATUALAIN,
27 mà nói rằng: Ðáng ngợi khen thay Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi! Ngài chẳng ngớt thương xót và thành thực đối cùng chủ tôi! Khi đương đi, Ðức Giê-hô-va dẫn dắt tôi đến nhà anh em của chủ tôi vậy.
de olaꞌ nae, “Koa-kio Lamatuaꞌ! Lamatuaꞌ soi dalaꞌ fee au ena, de undaa o malangga ngga Abraham bobꞌonggi nara sia ia. No taꞌo naa, Lamatuaꞌ mutudꞌu rala malole Ma neu malangga ngga Abraham, ma tao mutetu hehelu-fufuli na neu au.”
28 Người gái trẻ đó chạy về, thuật chuyện nầy lại cho nội nhà mẹ mình.
Basa ma, ana fetoꞌ a nela baliꞌ, de dui ume isi nara, basa saa fo mana dadꞌiꞌ a.
29 Vả, nàng Rê-be-ca có một anh, tên là La-ban. La-ban chạy đến người đầy tớ đó ở gần bên giếng.
Ribka naa na, naran Labꞌan. Leleꞌ ana nita bua mbilas ra ma rena Ribka dudꞌui na ma, ana nelaꞌ lai-lai, neu nandaa no ate mana rii-rii no banda onta nara deka oe mataꞌ a.
30 Vừa thấy khoanh vàng và đôi xuyến nơi tay em gái mình, và đã nghe chuyện Rê-be-ca thuật lại rằng: Người nầy nói vậy! thì đi đến người, đương đứng gần bên mấy con lạc đà, ở nơi giếng nước,
31 mà thưa rằng: Hởi người đã được Ðức Giê-hô-va ban phước! Xin mời vào. Sao đứng ngoài nầy vậy? Tôi đã sửa soạn nhà và dọn-dẹp một nơi cho mấy con lạc đà rồi.
Labꞌan olaꞌ no e nae, “Toꞌo! Lamatualain no toꞌo losa ia no masodꞌaꞌ ena. Dadꞌi afiꞌ mumburiꞌ siaꞌ a deaꞌ! Uma tisiꞌ hai ume ma. Hai sadꞌia kama ena, ma nanaat fee toꞌo se banda onta nara o, naeꞌ boe.”
32 Người đầy tớ bèn vào nhà; La-ban cổi yên cho lạc đà, đem cỏ cùng rơm cho các thú đó; rồi lấy nước đặng rửa chơn cho người đầy tớ và mấy kẻ đi theo.
Basa boe ma, Abraham ate na tungga Labꞌan, de risiꞌ Betuel ume na. Labꞌan se tulun se raꞌondaꞌ sudꞌiꞌ a saa ra mia banda onta ra. Ara fee banda onta ra uru, ma rendi oe fee ate a no atahori nara safe ei nara.
33 Ðoạn, người nhà bày bữa và mời ăn; nhưng người đầy tớ nói: Không, tôi không ăn đâu, nếu chưa nói được những điều tôi cần phải nói. La-ban đáp rằng: Hãy nói đi!
Ara tao nanaat neu mei ma, ate a nae, “Hita tae taa, te au ae ufadꞌe duduꞌat esa dei.” Labꞌan nataa nae, “Olaꞌ leo, toꞌo.”
34 Người bèn nói rằng: Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham.
Ma ate a nae, “Au ia, hei baꞌi ma Abraham ate na.
35 Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho chủ tôi bội phần, trở nên thạnh vượng; Ngài cho chủ tôi chiên, bò, bạc, vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa.
LAMATUALAIN fee papala-babꞌanggiꞌ naeꞌ neu malangga ngga, de namasuꞌi seli. Lamatualain fee lilo mbilas, lilo fulaꞌ, ate touꞌ-inaꞌ, ma banda naeꞌ. Naeni: sapi, banda onta, keledai, ma hiek-lombo.
36 Vả, Sa-ra, vợ chủ tôi, trở về già, có sanh một con trai cho người; người đã giao gia tài mình lại hết cho con trai đó.
Au malangga ngga touꞌ-inaꞌ ramalasi, dei de mama Sara bꞌonggi fee malangga ngga ana touꞌ esa. Dei fo, ana mana hambu basa Abraham hata-heto nara.
37 Chủ tôi lại có bắt tôi thề rằng: Ngươi chớ cưới cho con trai ta một người vợ nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, là xứ ta đương trú ngụ;
Lao esa, malangga ngga denu au sumba oi, ‘Ho afiꞌ haꞌi ana feto Kanaꞌan, fo muꞌusasaoꞌ no ana mone ngga Isak.
38 nhưng hãy về nhà cha ta, trong vòng bà con ta, mà cưới cho nó một người vợ tại đó.
Te ho musi haꞌi ana fetoꞌ mia bobꞌonggi nggara, dadꞌi eni sao naꞌ.’
39 Tôi nói cùng chủ tôi rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về.
Boe ma au utane malangga ngga ae, ‘Te mete ma ana fetoꞌ a nda nau tungga au sa naa, taꞌo bee?’
40 Chủ đáp rằng: Ðức Giê-hô-va là Ðấng ta phục sự sẽ sai thiên sứ theo ngươi, làm cho thành công việc ngươi đi; và ngươi sẽ cưới cho con trai ta một người vợ trong vòng bà con ta, tại nhà cha ta.
Ana nataa nae, ‘LAMATUALAIN fo au tungga hihii Na, dei fo denu ate Na mia sorga nema soi dalaꞌ fee nggo, fo hambu ana fetoꞌ mia au bobꞌonggi nggara, fo dadꞌi ana ngga sao na.
41 Vậy, nếu khi ngươi đi về bà con ta, mà họ không khứng gả cho, thì ngươi sẽ được gỡ lời thề nặng của ngươi đã thề cùng ta đó.
Te mete ma bobꞌonggi nggara nda simbo sa, ma nda nau mboiꞌ ana fetoꞌ a nema sia ia sa, naa, susumbaꞌ naa nda dai nggo sa.’
42 Ngày nay, khi đi đến giếng kia, tôi có cầu rằng: Lạy Ðức Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi! Xin đoái đến mà giúp công việc của tôi đi đây cho được thành!
Dadꞌi losa oe mataꞌ a ma, au hule-oꞌe sia rala ngga ae, ‘LAMATUALAIN, malangga ngga Abraham Lamatua na. Tulun soi dalaꞌ, fo leleo-lalao ngga ia, hambu maloleꞌ. Naa fo, au undaa o ana fetoꞌ fo mana nae dadꞌi Isak sao na.
43 Nầy, tôi ngồi gần bên giếng nầy: cầu xin hễ người gái trẻ nào sẽ ra xách nước mà tôi nói cùng nàng rằng: Xin cho tôi uống một hớp nước trong bình;
Lamatualain, au umburiiꞌ sia oe mataꞌ ia suu na. Ana fetoꞌ mia kamboꞌ ia ra rema hando oe sia ia. Dadꞌi au oꞌe taꞌo ia: Mete ma au olaꞌ o ana fetoꞌ esa ae, ‘Ana fetoꞌ e! Muꞌondaꞌ hura oe ma fo au inu mbei dei.’
44 mà sẽ trả lời rằng: Hãy uống đi, trước tôi sẽ xách cho các lạc đà ngươi uống nữa, xin cho người gái trẻ đó là vợ mà Ðức Giê-hô-va đã định cho con trai của chủ tôi!
Mete ma ana nataa nae, ‘Amaꞌ minu leo! Ma au o fee banda mara rinu boe.’ Naa, dadꞌi bukti, ana fetoꞌ naa Lamatualain dudꞌu basa dadꞌi Isak sao na!
45 Chưa dứt lời thầm nguyện, bỗng đâu nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra, xuống giếng xách nước. Tôi nói với nàng rằng: Xin cho tôi uống hớp nước.
Au nda feꞌe hule-oꞌe basa sa, te Ribka nema nendi hura oe na, de hando oe sia oe mataꞌ a. Ana hene ata neu ma, au oꞌe ae, ‘Ana fetoꞌ e. Fee au inu mbei dei.’
46 Nàng lật đật hạ bình trên vai xuống mà nói rằng: Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho các lạc đà ngươi uống nữa; vậy tôi có uống và nàng cũng có cho các lạc đà uống nữa.
Boe ma ana naꞌondaꞌ hura oe na, de nae, ‘Toꞌo e, minu leo! Au o hani toꞌo banda nara boe.’ De au inu ma banda onta ra o rinu boe.
47 Tôi bèn hỏi nàng rằng: Nàng là con gái ai? Nàng đáp: Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu nội của Na-cô và Minh-ca. Tôi liền đeo cái khoanh nơi lỗ mũi và đôi xuyến vào tay nàng.
Basa ma, utane e ae, ‘Ama ma, naran seka?’ Nataa nae, ‘Ama ngga, naran Betuel. Baꞌi ngga, Nahor ma nene ngga, Milka.’ Boe ma au fee ne ndeli a ma kale ra.
48 Ðoạn, tôi cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va, ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, mà đã dẫn tôi vào đường chánh đáng, để chọn được cho con trai người con gái của em chủ tôi.
Boe ma, au beꞌutee neu Lamatualain ae, ‘Koa-kio Lamatualain! Lamatualain soi dalaꞌ fee au, de undaa o malangga Abraham bobꞌonggi nara sia ia. Ma au o undaa o mana nae dadꞌi malangga soruꞌ a sao na boe.’
49 Vậy, bây giờ, nếu các ông muốn lấy lòng tử tế và trung tín đối cùng chủ tôi, xin hãy tỏ điều đó cho, dầu không, xin cũng nói cho biết, hầu cho tôi sẽ xây về bên hữu hay là về bên tả.
De ia naa, mete ma amaꞌ se mae mitudꞌu susueꞌ neu malangga ngga Abraham, naa, mifadꞌe au relo-relo. Mete ma hokoꞌ o, mifadꞌe relo-relo boe. Naa fo au bubꞌuluꞌ musi tao saa.”
50 La-ban và Bê-tu-ên đáp rằng: Ðiều đó do nơi Ðức Giê-hô-va mà ra, chúng tôi đâu nói được cùng ngươi rằng quấy hay rằng phải.
Ate a olaꞌ basa ma, Labꞌan no Betuel rataa rae, “Mete ma LAMATUALAIN tao nala taꞌo naa, naa, hai mae saa fai.
51 Kìa, Rê-be-ca đương ở trước mặt ngươi, hãy dẫn nó đi, để nó được làm vợ của con trai chủ ngươi, theo như lời Ðức Giê-hô-va phán định.
Ribka sia ia, de mo e naa neu leo fo dadꞌi baꞌi Abraham ana feto feu na, tungga saa fo LAMATUALAIN ator nalaꞌ a ena.”
52 Ðầy tớ của Áp-ra-ham vừa nghe lời hai người nói xong, liền sấp mình xuống đất trước mặt Ðức Giê-hô-va.
Ate a rena nala ma, ana beꞌutee losa rae, fo noꞌe makasi neu LAMATUALAIN.
53 Người lấy đồ trang sức bằng bạc, vàng, và áo xống trao cho Rê-be-ca; rồi cùng lấy các vật quí dâng cho anh và mẹ nàng.
Basa ma, ana haꞌi lilo mbilas ma lilo fulaꞌ, ma bua-baꞌu meulauꞌ fo fee neu Ribka. Ana o fee sudꞌi a saa mafelit neu Ribka naa na no ina na boe.
54 Ðoạn người đầy tớ cùng các người đi theo ngồi ăn uống; rồi ngủ tại đó. Qua ngày sau, khi họ đã thức dậy, người đầy tớ nói rằng: Xin hãy cho tôi trở về chủ.
Boe ma no atahori nara, endoꞌ raa fefetas. Basa de, ara sungguꞌ sia naa. Mbila fefetu na, ara fela ma, ana nafadꞌe tenu umeꞌ a nae, “Au oꞌe fo, nau naa, hai mae baliꞌ leo misiꞌ malangga ngga.”
55 Nhưng anh và mẹ nàng rằng: Hãy cho người gái trẻ ở lại cùng chúng tôi ít ngày nữa, độ chừng mười bữa, rồi nó sẽ đi.
Te Ribka naa na no ina na rae, “Hei halai baliꞌ tao saa? Hela Ribka nahani no hai fai sanahulu dei ma. Basaꞌ fo, mo e neu.”
56 Ðầy tớ đáp rằng: Xin chớ cầm tôi trễ lại, vì Ðức Giê-hô-va có làm việc đi đường tôi được thành. Hãy cho tôi đi, trở về nhà chủ tôi.
Te nataa nae, “Aduu! Afiꞌ ai au! LAMATUALAIN tulun au ena, de au undaa o mana nae dadꞌi malangga soru ngga sao na. De inaꞌ se mboꞌi hai, fo baliꞌ mii mifadꞌe malangga dei.”
57 Họ đáp rằng: Chúng ta hãy gọi người gái trẻ đó và hỏi ý nó ra sao;
Ara rataa rae, “Taꞌo ia! Ima fo tataneꞌ a Ribka, eni hihii na, taꞌo bee?”
58 bèn kêu Rê-be-ca và nói rằng: Con muốn đi cùng người nầy chăng? Nàng rằng: Tôi muốn đi.
Boe ma ara roꞌe Ribka, de ratane rae, “Ribka! Ia siaꞌ a nggo. Mae tungga memaꞌ mo atahori ia ra leo, do taꞌo bee?” Ana nataa nae, “Au nau.”
59 Ðoạn, họ cho Rê-be-ca, em gái mình, và người vú của nàng, đi về theo người đầy tớ của Áp-ra-ham và các kẻ đi theo.
Boe ma, ara mboꞌi Ribka, no ate inan mana mete-seꞌu e eniꞌ a aꞌanan, fo reu ro Abraham ate nara. Ara olaꞌ fee Ribka papala-babꞌanggiꞌ rae, “Ribka! Hai hule-huleꞌ fo Lamatualain fee nggo bꞌonggi mumuhefu, fo tititi-nonosi mara dadꞌi rifo-rataꞌ. Ma hai o hule-huleꞌ fo tititi-nonosi mara rasenggiꞌ musu nara!”
60 Họ chúc phước cho Rê-be-ca mà rằng: Hỡi em gái chúng ta! Chúc cho em được trở nên mẹ của ức triệu người, và cho dòng dõi em được chiếm lấy cửa thành của quân nghịch.
61 Rê-be-ca và các đòi nàng đứng dậy, lên cỡi lạc đà, đi theo người đầy tớ đó. Vậy, người đầy tớ dẫn Rê-be-ca đi.
Basa naa ma, Ribka no ate ina nara raꞌalilinuꞌ bua-baꞌu nara, de sae banda onta, fo lao ro Abraham ate nara.
62 Bấy giờ Y-sác ở tại nam phương từ giếng La-chai-Roi trở về;
Lele naa, Isak leo sia rae Negeb. Ana feꞌe baliꞌ mia oe mataꞌ sia Beer Lahai Roi.
63 lối chiều, người đi ra ngoài đồng đặng suy ngẫm; nhướng mắt lên, kìa ngó thấy lạc đà đâu đi đến.
Bꞌobꞌobꞌoꞌ esa, ana dea neu lao-laoꞌ haiꞌ anin. Ana botiꞌ mata na ma, nita banda onta ra rema.
64 Nàng Rê-be-ca cũng nhướng mắt lên, bèn chợt thấy Y-sác; liền nhảy xuống lạc đà,
Ribka nita Isak ma, ana onda lai-lai mia banda onta na.
65 và hỏi đầy tớ rằng: Người ở đằng trước mặt tôi đi lại trong đồng đó là ai: Ðầy tớ thưa rằng: Ấy là chủ tôi đó. Nàng bèn lấy lúp che mặt lại.
Natane Abraham ate na nae, “Toꞌo! Touꞌ mana laoꞌ nema naa, seka?” Ate a nataa nae, “Naeni au malangga soru ngga.” Boe ma Ribka haꞌi nala salenda na, de babata mata na.
66 Rồi, đầy tớ thuật cho Y-sác nghe hết các việc mà mình đã làm;
Ara losa ma, ate a nafadꞌe basaꞌ e neu Isak.
67 Y-sác bèn dẫn Rê-be-ca vào trại của Sa-ra, mẹ mình, cưới làm vợ, và yêu mến nàng. Vậy, Y-sác được giải phiền sau khi mẹ mình qua đời.
Boe ma Isak no Ribka risiꞌ inan lalaat na rala, de ruꞌa se esa sao esa. Isak sue Ribka, naa de, ana nda afiꞌ susa ina na mamaten sa ena.