< Xê-ca-ri-a 1 >

1 Vào tháng tám năm thứ hai triều Vua Đa-ri-út, Tiên tri Xa-cha-ri, con Bê-rê-kia, cháu Y-đô, nhận được sứ điệp của Chúa Hằng Hữu như sau:
Sa ikawalo ka bulan, sa ikaduhaka tuig ni Dario, midangat ang pulong ni Jehova kang Zacarias ang anak nga lalake ni Berechias, anak nga lalake ni Iddo, nga manalagna, nga nagaingon:
2 “Chúa Hằng Hữu giận tổ tiên các ngươi lắm;
Si Jehova nasuko uyamut sa inyong mga amahan.
3 vì vậy hãy nói cho chúng dân nghe: ‘Đây là lời của Chúa Hằng Hữu Vạn Quân: Nếu các ngươi quay về với Ta, Ta sẽ trở lại cùng các ngươi, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán vậy.’
Busa mag-ingon ikaw kanila: Mao kini ang giingon ni Jehova sa mga panon: Bumalik kamo kanako, nagaingon si Jehova sa mga panon, ug ako mobalik kaninyo, nagaingon si Jehova sa mga panon,
4 Đừng như tổ tiên các ngươi không lắng nghe hay để ý những điều các tiên tri đã nói với họ: ‘Đây là lời Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: Hãy từ bỏ đường ác, và chấm dứt những việc làm gian ác.’
Ayaw kamo panig-ingon sa inyong mga amahan, nga kanila ang unang mga manalagna mingsinggit, sa pag-ingon: Mao kini ang giingon ni Jehova sa mga panon: Bumalik kamo karon gikan sa inyong dautan nga mga dalan, ug gikan sa inyong dautan nga mga buhat: apan sila wala managpamati, ni managpatalinghug kanako, nagaingon si Jehova.
5 Tổ tiên các ngươi đâu cả rồi? Còn các tiên tri nữa, họ có sống mãi sao?
Ang inyong mga amahan, hain man sila? ug ang mga manalagna, magapuyo ba sila sa walay katapusan?
6 Tuy nhiên lời Ta, luật lệ Ta truyền cho các tiên tri, cuối cùng đã chinh phục lòng tổ tiên các ngươi. Họ ăn năn và nói: ‘Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã xử chúng tôi đúng như Ngài bảo trước, trừng phạt những điều ác chúng tôi làm, những đường tà chúng tôi theo.’”
Apan ang akong mga pulong ug ang akong kabalaoran, nga akong gisugo sa akong mga alagad nga mga manalagna, wala ba sila makaabut sa inyong mga amahan? ug sila mingbalik ug ming-ingon: Maingon nga si Jehova sa mga panon naghunahuna sa pagbuhat alang kanato, sumala sa atong mga batasan, ug sumala sa atong mga binuhatan, mao man ang gibuhat niya kanato.
7 Ngày hai mươi bốn tháng mười một, tháng Sê-bát, năm thứ hai triều Vua Đa-ri-út, Tiên tri Xa-cha-ri, con Bê-rê-kia, cháu Y-đô, lại nhận được sứ điệp của Chúa Hằng Hữu.
Sa ikakaluhaan ug upat ka adlaw sa ikanapulo ug usa ka bulan, nga mao ang bulan sa Sebath, sa ikaduha nga tuig ni Dario, midangat ang pulong ni Jehova kang Zacarias ang anak nga lalake ni Berechias, ang anak nga lalake ni Iddo, nga manalagna, nga nagaingon:
8 Đêm ấy, tôi thấy một người cưỡi ngựa hồng đứng giữa đám cây sim trong một thung lũng hẹp. Đứng sau người ấy có nhiều ngựa hồng, ngựa nâu, và ngựa trắng.
Nakita ko niadtong gabhiona, ug, ania karon, dihay usa ka tawo nga nagakabayo sa usa ka kabayo nga mapula, ug siya mitindog sa taliwala sa mga kahoy nga mirtos nga didto sa ubos; ug sa luyo niya dihay mga kabayo, mga mapula, alazan, ug maputi.
9 Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện với tôi: “Thưa ngài, những cảnh này có nghĩa gì?” Thiên sứ đáp: “Tôi sẽ cho ông biết.”
Unya miingon ako: Oh ginoo ko, unsa ba kini? Ug ang manulonda nga nakigsulti kanako miingon kanako: Ipakita ko kanimo kong unsa kini.
10 Rồi người đứng giữa đám cây sim, tức thiên sứ của Chúa Hằng Hữu, lên tiếng đáp lời tôi: “Chúa Hằng Hữu sai những người này đi khắp đất.”
Ug ang tawo nga nagtindog sa taliwala sa mga kahoy mga mirto mitubag ug miingon: Kini sila mao ang gipadala ni Jehova sa paglakaw ngadto-nganhi latas sa kalibutan.
11 Những người cưỡi ngựa báo với thiên sứ của Chúa Hằng Hữu: “Chúng tôi đã đi khắp đất, mọi nơi đều bình an.”
Ug sila mingtubag sa manulonda ni Jehova nga nagtindog sa taliwala sa mga kahoy nga mirto, ug ming-ingon: Kami minglakaw ngadto-nganhi latas sa kalibutan, ug, ania karon, ang tibook kalibutan nagaurong pa, ug nagapahulay,
12 Nghe thế, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu cầu nguyện: “Lạy Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, bảy mươi năm qua, cơn giận của Chúa Hằng Hữu đã trừng phạt Giê-ru-sa-lem và các thành Giu-đa. Đến bao giờ Chúa Hằng Hữu mới thương xót các thành ấy?”
Unya ang manulonda ni Jehova mitubag ug miingon: Oh Jehova sa mga panon, hangtud anus-a nga ikaw dili malooy sa Jerusalem ug sa mga ciudad sa Juda, nga imong gikasilagan sulod niining kapitoan ka tuig?
13 Chúa Hằng Hữu dùng lời từ tốn an ủi thiên sứ đang nói chuyện với tôi.
Ug si Jehova mitubag sa manulonda nga nakigsulti kanako uban sa mga maayong pulong, bisan sa mga makalilipay nga mga pulong.
14 Thiên sứ bảo tôi: “Hãy công bố những lời này: ‘Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: Khi thấy hoàn cảnh của Giê-ru-sa-lem và Núi Si-ôn, Ta giận lắm.
Busa ang manulonda nga nakigsulti kanako miingon kanako: Suminggit ka, sa pag-ingon: Mao kini ang giingon ni Jehova sa mga panon: Ako nangabugho tungod sa Jerusalem ug tungod sa Sion sa daku nga pagpangabugho.
15 Ta giận vì những dân tộc ngoại đạo đang sống an ổn, vì trong khi Ta chỉ hơi giận dân Ta thì các dân tộc ngoại đạo đã ra tay vượt quá ý định của Ta.’
Ug ako nasuko uyamut sa mga nasud nga nagapuyo sa kasayon; kay kaniadto nga diyutay ra unta ang akong kasuko, ug sila mingtabang sa pagpatubo sa kagul-anan.
16 ‘Cho nên, đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: Ta sẽ trở lại với Giê-ru-sa-lem với lòng thương xót. Đền Thờ Ta sẽ được xây lại, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán, và dây chuẩn mực sẽ giăng trên thành Giê-ru-sa-lem.’
Busa mao kini ang giingon ni Jehova: Ako mibalik sa Jerusalem uban ang mga kalooy; ang akong balay pagatukoron diha niana, nagaingon si Jehova sa mga panon, ug usa lubid nga igsusukod nga igakutay sa pagsukod sa Jerusalem.
17 Hãy công bố tiếp: Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: ‘Các thành của Ít-ra-ên sẽ lại thịnh vượng như xưa, Chúa Hằng Hữu sẽ vỗ về Si-ôn, vì một lần nữa, Ngài chọn Giê-ru-sa-lem.’”
Suminggit ka pag-usab, nga magaingon: Mao kini ang giingon ni Jehova sa mga panon: Ang akong mga ciudad magaawas pa sa kauswagan; ug si Jehova magalipay pa sa Sion, ug magapili pa sa Jerusalem.
18 Tôi nhìn lên, thấy có bốn cái sừng.
Ug giyahat ko ang akong mga mata, ug nakita ko, ug, ania karon, ang upat ka mga sungay.
19 Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện với tôi: “Những sừng ấy là gì?” Thiên sứ đáp: “Đó là những sừng đã làm cho Giu-đa, Ít-ra-ên, và Giê-ru-sa-lem tan tác.”
Ug ako miingon sa manulonda nga nakigsulti kanako: Unsa ba kini? Ug siya mitubag kanako: Kini mao ang mga sungay nga nagpatibulaag sa Juda, sa Israel, ug sa Jerusalem.
20 Chúa Hằng Hữu cho tôi thấy bốn người thợ rèn.
Ug si Jehova nagpakita kanako sa upat ka mga magsasalsal sa bulawan.
21 Tôi hỏi: “Những người này đến làm gì?” Thiên sứ đáp: “Họ đến đánh các sừng đã làm cho Giu-đa tan tác, để chúng không ngóc đầu lên được. Họ sẽ ném sừng của các nước ngoại đạo ấy xuống đất.”
Unya miingon ako: Unsay gianhi niini nga pagabuhaton? Ug siya misulti, nga nagaingon: Kini mao ang mga sungay nga nagpatibulaag sa Juda, sa ingon niana walay tawo nga nagpataas sa iyang ulo; apan kini mianhi sa paghadlok kanila, sa pagsalibay sa mga sungay sa mga nasud, nga nagpataas sa ilang sungay ibabaw sa yuta sa Juda sa pagpatibulaag kaniya.

< Xê-ca-ri-a 1 >