< Ru-tơ 2 >
1 Bấy giờ, Na-ô-mi có một người bà con bên chồng, có quyền thế và giàu có, thuộc họ Ê-li-mê-léc, tên là Bô-ô.
Hagi ana knafina Naomina nevenagapinti nera mani'neankino agi'a Boasi'e. Agra Elimeleki naga nofipinti afufeno ne' mani'nege'za, rama'a vahe'mo'za ke'za antahi'za hu'naze.
2 Một hôm, Ru-tơ thưa với Na-ô-mi: “Xin cho phép con ra đồng mót lúa. Con sẽ theo sau người thợ gặt nào tử tế với con.” Na-ô-mi nói: “Con hãy đi, con gái ta.”
Mago zupa Ruti'a Moaputi a'mo, Naomi asmino, Natrege'na hozafi vu'na atresaza bali raga knarerema hunantesage'na tragama hanaza naga zamage nevu'na zogi'neno. Higeno Naomi'a mofa'nimoka, tagri tavutvakinka amne vugahane huno hunte'ne. (Diut 24: 19)
3 Vậy Ru-tơ đi theo sau thợ gặt và thợ mót lúa. Tình cờ nàng vào đồng lúa của Bô-ô, người bà con của cha chồng, thuộc họ Ê-li-mê-léc.
Higeno Ruti'a vuno bali raga traga nehaza vahe zamage nevuno evuramiama'a zogi atru huno vu'ne. E'i ana eri'zama eri'neana Elimeleki nagapinti ne' Boasi hozafi eri'zana eri'neankino agra Boasi hoze huno ontahi'ne.
4 Trong khi nàng đang ở đó, Bô-ô từ Bết-lê-hem về, nói với những người thợ: “Cầu Chúa Hằng Hữu ban phước các anh chị em!” Những người thợ đáp: “Cầu Chúa Hằng Hữu cũng ban phước cho ông!”
Anama nehia knafi Boasi'a Betlehem kumateti eno, hoza traga nehaza vahe'agu kezatino Ra Anumzamo'a tamagrane manigahie, hige'za zamagra nona'a, Ra Anumzamo'a asomu hugantesie, hu'za hu'naze.
5 Rồi Bô-ô quay sang hỏi người cai thợ: “Cô gái ở phía kia là ai vậy?”
Boasi'a, hoza traga nehaza vahe'mokizmi kva ne' antahigeno, Amu zahufa ara aza naga nofipinti a' emani'ne?
6 Người cai thợ thưa: “Đó là một thiếu phụ người Mô-áp vừa theo bà Na-ô-mi về đây.
Hagi bali traga nehaza vahe'te kva ne'mo anage hu'ne, Agra Moabuti zahufa are, Moabu kumateti Naomi'ene magoka ena'e.
7 Chị ấy xin tôi cho chị theo sau thợ gặt để mót lúa. Chị mót từ sáng sớm đến giờ, chỉ nghỉ tay vài phút.”
Ruti'a eme nantahigeno, Knare bali tragahu vahe'mokizmi zamage nevu'na, bali raga ko'nama ananekisafinti evu ramisiama'a zogi atru hutere hugaho? Huno hige'na, knarere hunte'noe. E'neregati nantera agafa huno hamponatino tusi eri'za manigsa osu enerino, tona nompina osi'a kna manigsa hu'ne.
8 Bô-ô đi đến và nói với Ru-tơ: “Hãy nghe, con gái ta. Hãy ở đây mót lúa với chúng ta; đừng đến đám ruộng khác. Hãy theo sát các cô thợ gặt trong đám ruộng của ta. Hãy để ý họ gặt ở đám ruộng nào, rồi theo họ đến đó.
Higeno Boasi'a anage Rutinku hu'ne, Mofanimoka antahi ankero, mago hozafina atrenka vunka bali raga ome zogi atru osutfa huo. Kagra ama'na hozafinti'ra, atrenka ru hozafina ovugahane. Eri'za a'ne nagani'ane tragotenka eri'zana erigahane.
9 Ta đã dặn các thanh niên đừng làm phiền con rồi. Khi nào khát, cứ đến uống nước với thợ gặt.”
Ke ankerenka vene'nemo'za e'ina hozafi eri'zana eri'zanki nehunka, eri'za a'ne naga zamage huo. Vene'nemo'za kvako osiho hu'na nagra zamasmigahue. Kagri'ma tinku kavesisnigenka, vunka vene'nemo'za ome afi'za eme ante'naza kavofinti afinka no.
10 Ru-tơ quỳ xuống cúi chào và nói: “Sao ông tốt với tôi như thế, mặc dù tôi chỉ là một người ngoại quốc?”
Ruti'a agiafi rena reno avugosa mopafi hunteno, agrikura anage hu'ne, Nahigenka nagrira knare'zana hunantenka, nagrikura kagesa antahi nenamine, nagrama ru mopareti a'ma mani'noana?
11 Bô-ô đáp: “Ta có nghe từ ngày chồng con chết đi, con đã tận tình phụng sự bà gia. Ta biết con đã từ bỏ cha mẹ, quê hương để đến đây sống giữa những người xa lạ.
Higeno, Boasi'a nona'a Rutinku anage hu'ne, Maka'zama negave'ma fri'nereti'ma negnoferoma huntenka e'nana'zane, negafane, anta'kane, mopaka'anema atretenka kora antahinka, kenka osu'nana vahe'enena emani'nana kagenke ka'a ko nagrira nasmige'na antahi'noe.
12 Cầu Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên ban thưởng cho con dồi dào vì con đã tìm đến nấp dưới cánh Ngài.”
Anama hu'nana nona'a, Ramo mizana kamisie. Knare kvukva zantera Israeli Ra Anumzamo nona huno ante avitegantesie, kagrama kva hunante'snie, hunkama hu'nana Anumzamo asomu hugantesie.
13 Ru-tơ cảm kích: “Thưa ông, tôi mong được tiếp tục làm vui lòng. Ông đã an ủi tôi bằng những lời tử tế, dù tôi không đáng là đầy tớ ông.”
Anante Ruti'a anage hu'ne, Kagra knare'za nagrira hunenantane ramoka, na'ankure nagra mago kagri eri'za ara omani'noanagi, kagra nazeri so'e nehunka, knare keaga hunami'nane.
14 Đến giờ ăn, Bô-ô gọi Ru-tơ: “Đến đây ăn với chúng tôi. Nếu con thích, con có thể chấm bánh vào nước rượu này.” Vậy nàng đến, ngồi chung với các thợ gặt. Bô-ô đem cho nàng thức ăn—nàng ăn no nê mà vẫn còn thừa.
Henka ne'za nenaza knare, Boasi'a Rutinku anage hu'ne, Amare enka breti eme nenenka, hagi breti ka'a vinega timpi refru hunka no! Higeno bali tragahu vahe'mokizmi zamasoparega umani'negeno tevefi kre hagege hu'naza bali raga refko humigeno Ruti'a neteno amu higeno mago'a eriri'ne.
15 Khi Ru-tơ trở lại làm việc, Bô-ô dặn các thanh niên giúp việc: “Hãy để nàng mót tự do, dù có nhặt giữa các bó lúa cũng đừng nói gì.
Anante Ruti'a otino bali raga eri atru hunaku nevigeno, Boasi'a eri'za vahe'a zamasmino, Atrenkeno ama a'mo'a bali raga ko'na'ma anakinte'naza amu'nompi vano nehuno zoneginigeta ahe onatiho.
16 Thỉnh thoảng, rút ra trong bó ít bông lúa, bỏ cho nàng nhặt.”
Anahu kna hutma agri tfana, ko'na anakintepintira raga'a rmina avazuhu atre'nenkeno agra zogirino, hagi i'o hutma huonteho.
17 Ru-tơ cứ mót nhặt lúa mạch. Đến tối, sau khi đập các bó lúa đã mót, nàng được một giỏ đầy.
Ana higeno Ruti'a hozafinti bali raga zogi atru nehigeno vuno kinaga se'ne. Anante agrama zogi atru huno hareno eriri'nea bali rgamofo kna'amo'a 10ni'o, 13ni'a kilo naza fore hu'ne.
18 Nàng đem lúa về cho bà gia. Ru-tơ cũng đưa cho bà phần thức ăn còn lại từ bữa trưa của nàng.
Hagi Ruti'a zogirino, erino rankumate vigeno, nenofero'a nama'a zogirino e'neo ke'ne. Agra mago'a kre hagegehu balima feru nenegeno amu'ma higeno eriri'nea bali raga ne'zana Naomina hefimi'ne.
19 Bà gia hỏi: “Hôm nay con mót lúa ở đâu? Cầu Chúa Hằng Hữu ban phước lành cho người đối xử tử tế với con!” Nàng kể cho bà gia nghe mọi việc, rồi nói: “Người chủ ruộng tên là Bô-ô.”
Naomi'a, nenoferona amanage huno antahige'ne, Inante menina bali raga eritru hu'nane? Iza hozafi eri'zana eri'nane? Aza'o kagriku'ma agesa antahino kza hu'nesimofona asomu huntegahie. Higeno Ruti'a nenoferona aza'ene eri'zana eri'neo, nesmino anage hu'ne, Nagrama menima eri'zama erinte'noa ne'mofo agi'a, Boasi'e huno asmi'ne.
20 Na-ô-mi thốt lên: “Xin Chúa Hằng Hữu ban phước lành cho ông ấy! Ngài vẫn tiếp tục làm ơn cho người sống và người chết. Ông ấy là họ hàng với chúng ta, một người bà con rất gần.”
Naomi'a nenoferonku anage hu'ne, Ra Anumzamo'a agrira asomu huntegahie. Na'ankure Ramo fri'naza nagakura age okanino, mani'nona nagara so'e hunerante. Anante Naomi'a, Rutina asmi'ne, Ama'na nera tagri tvate kora mani'neankino, agra tagri kegava hurantegahie.
21 Ru-tơ nói: “Ông ta còn bảo con cứ đến mót lúa cho đến cuối mùa gặt.”
Ruti, Moapu a'mo ke nona'a anage hu'ne, Mago'ane nagriku anage hu'ne, Kagra eri'za vaheni'a mokizmi zamate manitere nehnanke'za nagri hozafinti ne'zana tragahu vagaregahaze huno nasmi'ne.
22 Na-ô-mi khuyến khích con dâu: “Thế thì tốt lắm! Hãy làm điều ông ấy nói. Hãy theo các cô thợ gặt của ông ấy cho đến hết mùa gặt. Con sẽ an toàn, không bị quấy nhiễu như những đám ruộng khác.”
Naomi'a, anante nenofero Rutina anage huno asmi'ne, Mofa'nimoka agri eri'za mofa'nene tragotenka eri'zante vnanana knare hugantegahie. Na'ankure ru vahe hozafi'ma eri'za omerisanana, hazenkezamo kvufare egahie.
23 Vậy, ngày ngày Ru-tơ theo sau các cô thợ gặt của Bô-ô để mót lúa cho đến cuối vụ gặt lúa mạch. Rồi cô tiếp tục làm việc với họ cho đến vụ gặt lúa mì đầu mùa hè. Suốt thời gian ấy cô vẫn sống với bà gia của mình.
Ana higeno Ruti'a, Boasi eri'za mofane zagane tragoteno bali raga zogino eritru nehigeno, bali hozama tragahu eri'zamo'a vagaregeno, witi hozama tragahu eri'zamo'enena anante vagare'ne. Ana eri'zama vagaregeno'a Ruti'a nenofero'ene mani'ne.