< Thánh Thi 59 >
1 (Thơ của Đa-vít, soạn cho nhạc trưởng khi Sau-lơ sai người vây nhà để giết Đa-vít) Lạy Đức Chúa Trời, xin giải thoát con khỏi tay quân thù nghịch. Bảo vệ con giữa bọn người chống nghịch con.
Þennan sálm orti Davíð þegar Sál konungur sendi menn heim til hans til að handsama hann og drepa (sjá: 1. Sam. 19:11). Ó, Guð minn, frelsaðu mig frá óvinum mínum! Verndaðu mig gegn þeim sem vilja drepa mig!
2 Xin cứu con khỏi phường gian ngoa; và bọn người khát máu bạo tàn.
Forðaðu mér frá þessum glæpalýð, þessum morðingjum.
3 Lạy Chúa Hằng Hữu, họ phục kích, rình rập, tụ tập những người hung dữ để giết hại con, dù con không làm điều gì phạm pháp.
Þeir sitja um líf mitt. Sterkir menn bíða útifyrir. Drottinn, þeir eru ekki hér af því að ég hafi gert þeim rangt.
4 Con không làm gì sai trái, họ vẫn chuẩn bị tấn công. Xin Chúa tỉnh thức! Sẵn sàng phù hộ và tra xét.
Samt vilja þeir drepa mig! Drottinn, vaknaðu! Sjáðu hvað er að gerast! Hjálpaðu mér!
5 Lạy Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, xin trỗi dậy trừng phạt các dân. Xin đừng thương xót bọn vô đạo bạo tàn.
Þú Drottinn, Guð hinna himnesku hersveita, Guð Ísraels, rís þú upp og refsa heiðnu þjóðunum sem umhverfis okkur búa. Miskunna ekki illgjörðamönnum.
6 Đến tối, họ quay lại, gầm gừ như chó, hùng hổ kéo quanh thành.
Að kvöldi koma þeir og njósna. Þeir snuðra eins og hundar og ráfa um borgina.
7 Miệng chửi rủa như gươm giáo; lời họ như những thanh gươm. Họ châm chọc: Có ai nghe đâu nào!
Ég heyri háðsglósur þeirra og hvernig þeir formæla Guði. „Enginn heyrir til okkar, “segja þeir.
8 Nhưng Chúa Hằng Hữu nhạo cười chúng. Ngài chế giễu các dân tộc.
En þú Drottinn, hlærð að þeim, gerir einnig gys að heiðingjunum sem umhverfis okkur búa.
9 Chúa là sức mạnh con; con trông đợi Ngài giải cứu, vì Ngài, lạy Đức Chúa Trời, là pháo đài kiên cố.
Guð, þú ert styrkur minn! Ég vil syngja þér lof, því að þú ert skjól mitt og hlíf.
10 Đức Chúa Trời đón con vào vòng tay từ ái, cho con vui mừng thấy số phận người hại con.
Guð mætir mér með náð sinni. Hann lætur mig sjá þegar óvinir mínir verða auðmýktir.
11 Xin đừng giết họ vội, e dân con quên bài học; nhưng xin dùng quyền năng phân tán, đánh đổ họ. Lạy Chúa, là cái thuẫn phù hộ của chúng con,
Ekki lífláta þá, þeirri ráðningu gleymir þjóð mín fljótt. Steyptu þeim heldur af stóli. Varpa þeim til jarðar, Drottinn, þú skjöldur minn.
12 Tội của môi miệng chúng nó, tội của miệng họ là cái lưỡi xảo quyệt, xin cho họ mắc bẫy kiêu căng, vì lời nguyền rủa và dối gạt.
Þeir eru hrokafullir. Þeir formæla og ljúga.
13 Xin hủy phá trong cơn thịnh nộ! Xóa bôi họ trên mặt địa cầu! Rồi cho cả thế giới biết rằng Đức Chúa Trời trị vì Gia-cốp.
Sviptu þeim burt með reiði þinni svo að þeir verði ekki framar til. Láttu þá kenna á því og sjá að þú, Drottinn, ert við völd í Ísrael og um allan heim.
14 Đến tối, họ quay lại, gầm gừ như chó, hùng hổ kéo quanh thành.
Á hverju kvöldi koma þeir aftur, ýlfra eins og hundar og ráfa um borgina,
15 Chúng sục sạo tìm mồi đây đó, rình suốt đêm vì bụng chưa no.
urra og leita að æti.
16 Nhưng con sẽ ca ngợi sức mạnh Chúa. Mỗi buổi sáng, con sẽ hát vang về lòng thương xót của Ngài. Vì Chúa là chiến lũy kiên cố, là nơi bảo vệ con trong ngày hoạn nạn.
En ég? – Á hverjum morgni vil ég syngja um miskunn þína og mátt, því að á degi neyðarinnar varstu mér vígi.
17 Lạy Đấng Sức Mạnh của con, con ca ngợi Ngài, vì Ngài, lạy Đức Chúa Trời, là nơi ẩn náu. Đức Chúa Trời đầy lòng thương xót.
Þú styrkur minn, um þig vil ég syngja ljóðin mín. Þú háborg mín! Þú minn miskunnsami Guð!