< Thánh Thi 10 >

1 (Thơ của Đa-vít, soạn cho nhạc trưởng) Chúa Hằng Hữu, Ngài ở tận nơi đâu? Khi nguy khốn sao Ngài đành giấu mặt?
Чому, Господи, Ти стоїш осторонь, ховаєш Себе [від нас] у часи скорботні?
2 Vì kiêu ngạo, người ác hăm hở đuổi theo người bị hại. Nhưng xin cho họ sa vào mưu chước họ đã bày ra.
Нечестивий пихато переслідує пригніченого – нехай сам потрапить у задумані ним каверзи!
3 Bọn người ác khoe khoang về dục vọng; theo kẻ tham lam, nguyền rủa, khinh Chúa Hằng Hữu.
Бо хизується нечестивий пристрастями душі своєї і жадібний ганьбить, зневажає Господа.
4 Người ác kiêu ngạo không tìm kiếm Đức Chúa Trời. Dường như họ nghĩ Đức Chúa Trời không hiện hữu.
Зухвало нехтує нечестивець тим, щоб Господа шукати, немає [місця для] Бога в жодному його підступному задумі.
5 Vì đường lối họ thành công luôn. Họ tự cao và luật lệ Chúa quá xa xôi với họ. Họ nhạo cười tất cả kẻ thù.
Його справи йдуть успішно повсякчас, [занадто] високі для нього закони справедливості Твоєї, глузує він з усіх супротивників своїх.
6 Họ tự nhủ: “Chẳng bao giờ ta bị chao đảo! Hạnh phúc luôn luôn và chẳng gặp tai ương!”
Говорить він у серці своєму: «Не похитнуся, ніколи лихо мене не спіткає!»
7 Miệng đầy lời chửi rủa, dối trá, và đe dọa. Lưỡi họ toàn lời gây rối và độc ác.
Його вуста наповнені прокляттям, підступом і пригніченням, під язиком у нього лихо й сваволя.
8 Họ rình rập nơi thôn làng, mai phục ám sát người vô tội. Bí mật rình mò chờ nạn nhân.
Залягає він у засідку [біля] огороджених поселень, у глухих місцевостях вбиває невинного, очі його стежать за вбогим.
9 Họ nằm yên như sư tử ngụy trang, để bắt người khốn cùng. Họ bắt được người ấy và gỡ ra khỏi lưới.
Чатує у схованці, немов лев у лігві; чигає, щоб схопити пригніченого; хапає бідаря, тягнучи його у свої сіті.
10 Các nạn nhân cô thế bị chà nát; trước sức mạnh đành phải chịu đầu hàng.
Понівечений, він згинається й падає, і могутність [нечестивця] вражає знедолених і нещасних.
11 Người ác nhủ thầm: “Chúa chẳng xem việc chúng ta đâu! Ngài che mặt, chẳng bao giờ trông thấy!”
Говорить [безбожний] у своєму серці: «Бог забув, Він сховав обличчя Своє, повік не побачить [цього]».
12 Chúa Hằng Hữu, xin trỗi dậy! Xin trừng phạt người ác, lạy Đức Chúa Trời! Xin đừng quên cứu giúp người khốn cùng!
Повстань, Господи! Здійми руку Твою, Боже! Не забувай пригнічених!
13 Sao để cho ác nhân phỉ báng Đức Chúa Trời? Rồi thầm nghĩ: “Chúa không bao giờ tra hỏi.”
Чому нехтує Богом нечестивий, говорить у своєму серці, що не відплатиш Ти [за зло]?
14 Nhưng lạy Chúa, Chúa thấy rõ những khó khăn sầu khổ. Xin Chúa ghi vào và hình phạt ác nhân. Nạn nhân chỉ trông chờ nơi Chúa. Vì Chúa là Đấng bênh vực người mồ côi.
Але ж Ти бачиш! На утиск і гніт Ти уважно дивишся, щоб рукою Своєю покарати [винного]. Убогий Тобі ввіряється, Ти помічник сироті.
15 Xin bẻ gãy cánh tay người độc hại và gian ác! Và bắt chúng khai hết những hành vi bạo tàn.
Зламай же плече нечестивому й злому, відплати за його беззаконня так, щоб не знайшлося [нічого після нього].
16 Chúa Hằng Hữu là Vua muôn đời! Các dân sẽ bị diệt khỏi nước Ngài.
Господь – Цар на віки вічні, згинуть народи [чужі] із землі Його.
17 Chúa Hằng Hữu đã nghe ước nguyện người khốn khổ. Ngài lắng nghe và an ủi tâm hồn.
Бажання бідних Ти чуєш, Господи, підтримуєш їхні серця, схиляєш вухо Своє [до їхнього зойку],
18 Ngài bênh vực người bị áp bức và mồ côi, để những người sinh ra từ đất không còn gây sợ hãi.
щоб здійснити правосуддя для сироти й пригніченого, щоб [смертна] людина не наводила більше жаху на землі.

< Thánh Thi 10 >