< Mi-ca 3 >
1 Tôi bảo: “Hãy lắng nghe, các nhà lãnh đạo của Ít-ra-ên! Các ngươi cần phân biệt chính tà, phải trái,
Dilia! Isala: ili ouligisu dunu! Nabima! Dilia da moloidafa hou noga: le ouligimu galu!
2 nhưng các ngươi lại ghét điều lành và mến điều dữ. Các ngươi bóc lột dân lành đến tận xương tủy.
Be dilia da noga: idafa hou higale, wadela: i hou hanasa. Dilia da na fi dunu amo esasulumuna: wane gadofo houga: le, hu gaga: ne fasisa.
3 Các ngươi ăn thịt dân tôi, lột da, và bẻ xương họ. Các ngươi chặt ra từng miếng cho vào nồi.
Dilia da na fi na dagosa! Dilia da ilia gadofo houga: le, ilia gasa fifili, amola ilia da: i hodo hu gobele nasu defele hedesisa.
4 Rồi các ngươi sẽ kêu cầu Chúa Hằng Hữu giúp đỡ! Các ngươi có thật tin Ngài sẽ trả lời không? Với tất cả điều ác các ngươi đã làm, Ngài sẽ không nhìn các ngươi dù chỉ một lần!”
Esoha da mana, amo doaga: sea, dilia da Hina Godema dini imunu. Be Eda dilima dabe hame adole imunu. Dilia da wadela: le hamoiba: le, E da dilia sia: ne gadobe hame nabimu.
5 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: “Ngươi, các tiên tri giả đã dẫn dân Ta đi lầm lạc! Các ngươi chỉ hòa hảo với những người cho ngươi ăn, và tuyên chiến với những ai không cung cấp lương thực cho ngươi.
Balofede dunu ilia Na fi dunuma ogogole olelesa. Amo balofede dunu da nowa ilima bidi iasea, ilima hahawane olofosu ilegele ba: la la. Be nowa da ilima bidi hame iasea, ilima wadela: i gegesu fawane ilegele ba: la la. Hina Gode da amo balofede dunuma amane sia: sa.
6 Vì thế, suốt đêm các ngươi chẳng thấy khải tượng. Các ngươi tự giam mình trong bóng tối mà chẳng nói được một lời thần cảm. Mặt trời sẽ lặn trên các tiên tri, và quanh họ ban ngày cũng biến thành đêm tối.
“Balofede dunu dilia! Dilia eso da dagomu gadenesa! Dilia eso da wali dagomu galebe. Dilia da bu ba: lalumu da hamedei ba: mu. Bai dilia da Na fi dunuma ogogoi. Amola dilia da fa: no misunu liligi da hame ba: lalumu.
7 Những người tiên kiến sẽ xấu hổ, và các tiên tri sẽ thẹn mặt. Tất cả đều che miệng vì chẳng được lời giải đáp nào từ Đức Chúa Trời.”
Amo fa: no misunu hou ba: la: lusu dunu ilia da fa: no misunu hou hame ba: beba: le, gogosiamu. Gode da ilima dabe hame adole imunuba: le, ilia da dunu mimogoa gogosiasu ba: mu.
8 Nhưng phần tôi, tôi đầy dẫy quyền năng— bởi Thần của Chúa Hằng Hữu. Tôi đầy dẫy công chính và sức mạnh để rao báo tội lỗi và sự phản nghịch của Ít-ra-ên.
Be nama da Hina Gode da Ea gasa bagade A: silibuga nama nabalesisa. E da nama moloidafa asigi dawa: su amola dogo denesini dawa: su iaha. Amaiba: le, na da Isala: ili dunu ilima ilia wadela: i hou diliwaneya udidimusa: dawa:
9 Hãy nghe tôi, hỡi các nhà lãnh đạo Ít-ra-ên! Các ông thù ghét công lý và xuyên tạc cả sự công chính.
Isala: ili ouligisu hina dunu, dilia! Na sia: nabima! Dilia da moloidafa hou higabeba: le, wadela: i hou fawane hamomusa: bagade hanasa.
10 Các ông là những người xây cất Giê-ru-sa-lem bằng máu người và bằng sự thối nát.
Fedege agoane, dilia Yelusaleme moilai bai bagade gagusia, fane legesu amola moloi hou hame amoga bai fa: le gagusa.
11 Các phán quan xử kiện để ăn hối lộ; các thầy tế lễ dạy luật của Đức Chúa Trời vì thù lao; các tiên tri rao giảng vì tiền bạc. Thế mà họ dám dựa vào Chúa Hằng Hữu mà rêu rao: “Chúng ta sẽ không gặp tai họa nào, vì Chúa Hằng Hữu vẫn ở giữa chúng ta!”
Moilai bai bagade ouligisu dunu ilia da hano suligisu hawa: fawane hamosa. Gobele salasu dunu da bidi lamusa: fawane Sema olelesa. Balofede dunu ilia da bidi lamusa: fawane, fa: no misunu hou olelesa. Be ilia huluane da Hina Gode da ilima esala amane sia: sa. Ilia da amane sia: sa, “Hina Gode da ninima esalebeba: le, ninima se nabasu da hame doaga: mu!”
12 Vì các ngươi, Núi Si-ôn sẽ bị cày như ruộng; thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị sụp đổ! Và núi nơi Đền Thờ ngự trị chỉ còn là một đỉnh cao.
Amaiba: le, dilia da bai hamobeba: le, Saione moilai bai bagade da osobo gidinasuga dogoi agoai ba: mu. Yelusaleme moilai bai bagade da mugululi lelegela heda: i dialebe ba: mu. Amola Debolo agolo da iwila hamoi dagoi ba: mu.