< Ma-thi-ơ 26 >

1 Giảng dạy xong, Chúa Giê-xu bảo các môn đệ:
Jisu ih erah loong ah jen thoon nyootsoot rum ano, heliphante loong asuh baatta,
2 “Các con biết còn hai ngày nữa đến lễ Vượt Qua, Con Người sẽ bị phản bội và đóng đinh trên cây thập tự.”
“Sen ih jat ehan, sa nyi mongdoh, Khopi Kuwaang angte, eno Mina Sah ah bangphak nah rapbot suh mih suh jokoh rum ah.”
3 Chính lúc ấy, các thầy trưởng tế và các trưởng lão họp tại dinh thầy thượng tế Cai-phe,
Eno romwah phokhoh nyia hadaang phokhoh loong ah Romwah Phokhothoon Kaiaphas noklong ni lomtong rumta,
4 tìm âm mưu để bắt giết Chúa Giê-xu.
eno Jisu ah jokhak ano tek haat suh ngoongthum huthum rumta.
5 Họ quyết định chờ qua ngày lễ, để dân chúng khỏi náo động.
Neng ih liita, “Seng ih erah kuwaang tokdoh lajaajaat reejih, adoleh miloong ah phophaang daanmui rum ah.”
6 Chúa Giê-xu vào nhà Si-môn, một người phong hủi tại làng Bê-tha-ni.
Bithaani ni Jisu ah engam wah Simoon nok ni angta.
7 Chúa đang ngồi ăn, một thiếu phụ bước vào, mang theo bình ngọc thạch đựng dầu thơm rất đắt tiền. Chị đổ trên đầu Chúa.
Jisu phaksat phaksah tokdi, minuh nusiit ih kom thuung adi phontum ah pi ano wang taha eno Jisu lah adi lokta.
8 Các môn đệ tức giận trách: “Phí của quá!
Heliphante loong ah ih erah sok rum ano ekhat ih rumta. “Arah loong ah tumet suh thaaja wan halu? Neng ih cheng rumta.
9 Sao không đem bán bình dầu thơm lấy số tiền lớn cứu trợ người nghèo?”
“Arah phontum ah ngun hantek doh sang ano changthih loong suh kotjih boh angta!”
10 Biết dụng ý của họ, Chúa Giê-xu can thiệp: “Sao các con quở trách chị ấy? Chị đã làm một việc tốt đẹp cho Ta.
Neng ih tumjih li rumta erah Jisu ih ejat etta, eno baat rumta, “Arah nuh ah sen ih tumet suh paklak han? Nga raangtaan ih heh jaase jih nyia epunjih boh reela.
11 Các con còn nhiều cơ hội giúp đỡ người nghèo, nhưng không có Ta luôn luôn.
Changthih loong abah saarookwih sen damdam eje ang ha, enoothong ngah ah sen damdoh saarookwih lajeete.
12 Chị đã xức dầu tẩm liệm thân Ta trước ngày mai táng.
Arah nuh reela ah langla, nga sak nah phontum ah lok ano nga mangbeng thengnah thiinkaat suh ban khookhamha.
13 Ta cho các con biết, việc làm của chị hôm nay sẽ được nhắc nhở ca tụng khắp thế giới, tại những nơi Phúc Âm được truyền bá.”
Amadi, ngah ih amiimi tiit baat rumhala arah mongrep adoh ruurang ese marah nah thok ah, erah doh arah minuh reela ah labeehaat thang ih samthun jih ang ah.”
14 Lúc ấy, một trong mười hai sứ đồ tên Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đến tiếp xúc với các thầy trưởng tế.
Eno heliphante loongdung dowa wasiit—hemen ah Judas Eskeriot—romwah phokhothoon nok ni kah ano
15 Giu-đa hỏi: “Nếu tôi bắt Thầy tôi nộp cho các ông, các ông thưởng bao nhiêu?” Họ đồng ý trả ba mươi lạng bạc, và cân ngay số bạc cho Giu-đa.
chengta, “Jisu ah jokoh ha bah an ih ngah suh tumjih kohang?” Neng ih ngunkholok lo rookjom ah rookweh rum ano Judas suh korumta.
16 Từ đó, Giu-đa tìm cơ hội nộp Chúa Giê-xu.
Erah sa dowa ih Judas ih Jisu ah neng suh jootkot suh rangwuung ban sok ruh eta.
17 Ngày đầu lễ Vượt Qua—trong ngày lễ này, người Do Thái chỉ ăn bánh không men—các môn đệ đến hỏi Chúa Giê-xu: “Thầy muốn ăn lễ Vượt Qua tại đâu? Xin Thầy chỉ bảo để chúng con sửa soạn.”
Toomuh Baanlo Kuwaang saakhoh thoon adi heliphante loong ah Jisu jiinni thokrum ano cheng rumta, “Khopi Romhoon phaksat ah an raangtaan ih maradoh khookham thuk he?”
18 Chúa đáp: “Các con vào thành tìm một người, rồi nói: ‘Thầy bảo: Giờ Ta gần đến, Ta và các môn đệ sẽ dự lễ Vượt Qua tại nhà anh.’”
Heh ih baat rumta, “Samnuthung ni mih esiit je ah erah jiinnah kah an, eno heh suh baat an: ‘Nyootte ih liita, nga saapoot ah thok ehala; nga liphante nyia ngah ih Khopi Romhoon phaksat ah an nok nah phaksah ih eah.’”
19 Các môn đệ làm đúng theo lời Chúa Giê-xu và chuẩn bị lễ Vượt Qua.
Heliphante loong ah ih heh ih mamet baatta erah jun ih kuwaang phaksat ah khookham rumta.
20 Đến tối, Chúa Giê-xu ngồi ăn với mười hai sứ đồ.
Rangjaako di, Jisu nyia heliphante asih wanyi loong ah phaksat suh tong rumta.
21 Giữa bữa ăn, Chúa phán: “Ta quả quyết, một người trong các con sẽ phản Ta!”
Phaksat tokdi Jisu ih liita, “Ngah ih baat rumhala, sengdung dowa wasiit ih ngah ah mih suh khumtante ang hali.”
22 Các môn đệ vô cùng buồn bực, lần lượt hỏi Chúa: “Thưa Chúa, có phải con không?”
Heliphante loong ah rapne ih thungthih rum ano wasiit wasiit ih cheng rumta, Teesu, Amiisak ih ngah suh maamok li jang oh?”
23 Chúa đáp: “Người nào nhúng bánh vào đĩa với Ta là người phản Ta.
Jisu ih ngaakbaat rumta, “Nga damdoh khuungsiit ni roong phaksatte ih khuumtante ang halang.
24 Con Người phải chết như lời Thánh Kinh nói trước. Nhưng khốn cho kẻ phản Con Người. Thà nó chẳng sinh ra còn hơn!”
Mina Sah abah etek ete Rangteele ni raangha jun ih ah, enoothong tumthan echoojih ang ah Mina Sah khuumtante wah raang ih ah! Erah mih ah lalaan dong tup taha bah ese ang thengta!”
25 Giu-đa cũng giả vờ hỏi: “Thưa Thầy, có phải con không?” Chúa Giê-xu đáp: “Chính con đã nói điều đó.”
Judas, Jisu mokwaante wah, ah toonjengta. “Nyootte, an ih amiimi ngah suh maamok li jang oh?” Judas ih chengta. Jisu ih ngaakbaatta, “An ih liihu ah ju angte.”
26 Khi đang ăn, Chúa Giê-xu lấy bánh, cảm tạ rồi bẻ ra trao cho các môn đệ. Ngài dạy: “Đây là thân thể Ta, các con hãy lấy ăn.”
Neng phaksat phaksah rum adi, Jisu ih baanlo ah toonpi ano, Rangte suh lakookmi rangsoom ah soom ano, chepphiitta, eno heliphante loong asuh korum ano, “Phak an; ih baat rumta, “Arah ah nga sak.”
27 Chúa cũng rót nước nho, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi đưa cho các môn đệ:
Erah lilih heh ih lokkep ah toon ano, Rangte suh lakookmi liita, eno heliphante loong asuh korumta. “Jok an,” heh ih baatta;
28 “Các con hãy uống vì đây là máu Ta, máu đổ ra cho nhiều người được tha tội, ấn chứng Giao Ước mới giữa Đức Chúa Trời và nhân loại.
“Arah ah nga sih, Rangte nyia mina chamchi ni nuumiijeng tangmiin ha, nga sih ah miloong rangdah biin anaan suh jan ah.
29 Ta cho các con biết: Ta sẽ không uống nước nho này nữa cho đến ngày uống nước nho mới với các con trong Nước Cha Ta.”
Ngah ih baat rumhala, ngah ih arah kham ah babah uh takah jokkang seng Wah hasong nah sen damdoh kham na ah maang jokjok ah.”
30 Hát thánh ca xong, Chúa và các môn đệ lên núi Ô-liu.
Eno neng rangsoom boong ah boong rum ano Olip kong ni dokkhoom wang rumta.
31 Chúa Giê-xu phán với họ: “Đêm nay, các con đều lìa bỏ Ta. Vì Thánh Kinh đã viết: ‘Ta sẽ đánh người chăn, và bầy chiên tan tác.’
Eno Jisu ih neng suh baatta, “Niikja sen ih ngah ah thiinhaat heeno moongsoon ete, tumeah Rangteele ni liiha, ‘Rangte ih saapriimte ah tek haat et ah, eno saapsah loong phaangjaang eah.’
32 Nhưng sau khi sống lại, Ta sẽ qua xứ Ga-li-lê gặp các con.”
Enoothong ngah ewe ngaakthing eh ang doh, Ngah sen jaakhoh nah Galili hadaang adoh kah ang.”
33 Phi-e-rơ thưa: “Dù mọi người lìa bỏ Thầy, con cũng sẽ chẳng bao giờ xa Thầy.”
Pitar ah toonjengta eno Jisu suh baatta, “Wahoh loong ih thiinhaat ho bah uh ngah ih bah tahiin haat ra!”
34 Chúa Giê-xu đáp: “Ta quả quyết với con, Phi-e-rơ—đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.”
Jisu ih Pitar suh baatta, “Ngah ih baat hala niikja woh we ngah ngah an ih ngah suh tajatkang ih lekjom liihang.”
35 Phi-e-rơ thưa: “Dù phải chết với Thầy, con cũng sẽ không bao giờ chối Thầy!” Các môn đệ khác cũng đều quả quyết như thế.
Pitar ih ngaakbaatta, “An damdoh roongtek jih ang adoh botseh emah ngah tajeng kang!” Eno heliphante wahoh loong eh uh emamah ih baat rumta.
36 Chúa Giê-xu đi với các môn đệ vào vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài phán: “Các con ngồi đây, đợi Ta đi cầu nguyện đàng kia!”
Eno Jisu ah heliphante damdi Getsemani et liiha hah adi kata, eno heh ih baat rumta, “Adoh ban tong an ngah therah doh rangsoom wang ang.”
37 Chúa chỉ đem Phi-e-rơ cùng hai con trai của Xê-bê-đê, Gia-cơ và Giăng, theo Ngài. Từ lúc đó, Ngài cảm thấy đau buồn sầu não vô cùng.
Heh ih heh damdi Pitar nyia Jebidi sah wanyi ah siitwanta. Heh thungthet nyia heh mongsaam ah dong eta,
38 Ngài phán với họ: “Linh hồn Ta buồn rầu tột độ! Các con ở đây thức canh với Ta.”
eno heh ih neng suh baatta, “Nga ten ah rapne ih satla etek thanthan ah. Adoh tong anno ngah bansok he.”
39 Chúa đi một quãng, rồi quỳ gối sấp mặt xuống đất cầu nguyện: “Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin theo ý Cha, chứ không theo ý Con.”
Heh amasah haloot ni heng khoomta, eno hah ni kotbon ano rangsoomta, “Ewah ejen lang eabah, arah ngah chamnaang lookkep ah toon et weeuh! Enoothong nga thung jun doh lah angthang ih, an thung jundoh ju toom ang ah.”
40 Khi quay lại, Chúa thấy ba môn đệ đang ngủ, Chúa phán với Phi-e-rơ: “Con không thức với Ta được một giờ sao?
Eno heliphante wajom jiinni ngaak kah adi, neng ah emokjup ih rum arah kaptupta; eno heh ih Pitar suh baatta, “Senjom ih saapootsiit taan uh mamah lajen bansok et hali?
41 Phải tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa vào vòng cám dỗ. Vì tâm linh thật muốn, nhưng thể xác yếu đuối!”
Rangsoom nah banban ih tong an sen phate joonnaam nah naktoom dat an. Chiiala abah enook taat ela, enoothong hansi ah ba naangla.”
42 Chúa Giê-xu đi cầu nguyện lần thứ nhì: “Cha ơi! Nếu chén này không thể dẹp bỏ được cho đến khi Con uống xong, xin ý Cha được thực hiện.”
Jisu leksiit rangsoom we wangta, “Ewah nga maang chamkang jaakhoh nah, chamchoh lookkep ah lajen toonhaat jih ang abah, an thung jun doh toom ang raaha.”
43 Lần này, Chúa quay lại thấy các môn đệ vẫn ngủ, mắt nhắm nghiền.
Heh we ngaak kah adi heliphante loong ah mokjup ruh eh arah we japtup kata; neng mik uh tajen daapsok rumta.
44 Vậy, Ngài đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng xin như lần trước.
Eno Jisu ah lekjom we wang ano, erarah ah we soomwangta.
45 Chúa trở lại, bảo các môn đệ: “Giờ này các con còn ngủ và nghỉ ngơi sao? Đã đến lúc Con Người bị phản nộp vào tay bọn gian ác.
Eno we ngaak ra haano heliphante loong asuh liita, “Amadi uh sen thok naangjup ruh nih elan? Sok an! Mina Sah ah rangdah miloong lak nah kot suh saapoot echang ela.
46 Đứng dậy, đi với Ta! Này, kẻ phản Ta đã tới!”
Saat an, kah ih. Sok an, arah nga khuumtante mina rah ah!”
47 Chúa Giê-xu còn đang nói, Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ xông đến. Theo sau, có một đoàn người cầm gươm dao, gậy gộc, là tay sai của các thầy trưởng tế và các trưởng lão.
Jisu ih erah baat tokdi heliphante dung dowa Judas, dong khoom taha. Heh damdi mih loong hantek lang apah pan romwah phokhoh nyia hadaang phokhoh ih daapjah rum taha.
48 Tên phản Chúa, Giu-đa, ra ám hiệu: “Tôi hôn người nào, các anh cứ bắt giữ ngay!”
Judas ih miloong asuh jatthukta: “Marah mih chupphak ang erah mih ah sen ih jam han rah ang ah. Eno erah ah khak an!”
49 Giu-đa trân tráo xông thẳng đến chào Chúa Giê-xu: “Lạy Thầy!” rồi hôn Chúa.
Judas Jisu reeni phangla ih wang ano liita, “Semroongroong toomtong uh, Nyootte,” eno chupphakta.
50 Chúa Giê-xu đáp: “Bạn ơi, cứ làm cho xong việc của bạn đi!” Bọn kia liền xông vào bắt giữ Chúa Giê-xu.
Jisu ih ngaakbaatta, “Nga joonwah, tumjih raang ih wang halu, echaan eh uh!” Eno mih loong ah wang rum ano, Jisu ah jokhak rumta.
51 Một môn đệ của Chúa rút gươm chém đầy tớ của thầy thượng tế, đứt mất một vành tai.
Jisu dam dowa mih wasiit ih heh lang ah heehoom ano Romwah Phokhoh dah, na ah chepdookta.
52 Tuy nhiên, Chúa Giê-xu bảo: “Hãy tra ngay gươm vào vỏ! Vì ai cầm gươm sẽ bị giết bằng gươm.
Jisu ih baatta, “An lang ah hetoop nah we ngaaksak uh, “O mina ih lang toon ah erah mina ah lang doh ti ah.
53 Con chẳng biết Ta có quyền xin Cha mười hai quân đoàn thiên sứ đến bảo vệ Ta sao?
Sen ih tanih jatkan nga pangsuh seng Wah ah ejen poon et thengtang, eno lakdam damdoh rangsah sipaahi loong ah asih wanyi nang ih ehan et daapkaat theng taha?
54 Nhưng nếu thế thì lời Thánh Kinh đã viết về các việc này làm sao ứng nghiệm được?”
Enoothong, emah mok ang abah Rangteele ni elang jaatjaat etheng ih liiha ah amiisak doh mamah ma jen ang ah?
55 Chúa Giê-xu hỏi đoàn người bắt Ngài: “Ta đâu phải trộm cướp mà các ông đem gươm dao, gậy gộc đến bắt? Hằng ngày Ta vẫn ngồi giảng dạy trong Đền Thờ, sao các ông không bắt Ta?
Eno Jisu ih miloong asuh liita, “Sen loong ah nga joot suh lang apah pan nih ra halan, ehuh elek jootjoot ah? Ngah ih Rangteenok ni tong ano saarookwih kah nyootsoot tang rah ah, erah di mamah lah joh ih tahe?
56 Nhưng mọi việc xảy ra đây đều làm ứng nghiệm lời các nhà tiên tri trong Thánh Kinh.” Khi ấy, tất cả các môn đệ đều bỏ Ngài và chạy.
Enoothong arah loong ah khowah loong ih Rangteele ni raangthiin rumta ra amiisak toom ih pun raaha ih angla.” Eno heliphante loong ah heh ah thiinhaat rum ano thoontang moongsoon rumta.
57 Bắt được Chúa rồi, họ giải Ngài đến dinh thầy thượng tế Cai-phe. Các thầy dạy luật và các trưởng lão đã họp mặt đông đủ trong dinh.
Jisu khakte loong ah ih Romwah Phokhothoon Kaiphas nok adi siitwan rumta, erah di Hootthe nyootte nyia hadaang phokhothoon loong lomtong rumta
58 Trong khi đó, Phi-e-rơ theo sau Chúa xa xa, cho đến khi vào sân dinh thầy thượng tế. Ông len lỏi ngồi chung với bọn tuần cảnh để theo dõi mọi diễn biến.
Pitar ah haloot nawa neng lilih ih wang ano Romwah Phokhothoon nok adi thok phanjoh wanta. Pitar ah nokmong ni nopkhoom wang ano, sipaahi loong damdi roongtong wang ano mamah angthaak ah ih ban sokta.
59 Các thầy trưởng tế và cả Hội Đồng Quốc Gia tìm bằng chứng dối để khép Chúa Giê-xu vào tội tử hình.
Romwah Phokhoh loong nyia ah Ngoong awang loong ah ih lalangka di Jisu jen tek haat theng mat ih joot suh taat chung rumta;
60 Dù nhiều người đứng lên vu cáo đủ điều, nhưng họ vẫn chưa tìm thấy bằng chứng nào có đủ giá trị. Cuối cùng, hai người tiến lên tố cáo:
enoothong warep ih Jisu tiit hahuung baat suh taat wang rumha bah uh, hahuung tiit baat suh lampo tajeeta. Hethoondi wanyi toonchap ano
61 “Người này đã nói: ‘Ta sẽ phá nát Đền Thờ của Đức Chúa Trời rồi xây cất lại trong ba ngày.’”
baat nyuuta, “Arah mih rah ih liita, ‘Ngah ih Rangteenok ah thaak haat ang no, sa jom doh we jen hoon ang eah.’”
62 Thầy thượng tế vùng đứng dậy, hỏi Chúa Giê-xu: “Sao, ông trả lời thế nào về lời tố cáo đó?”
Romwah Phokhothoon ah toonchap ano Jisu suh liita, “An tiit erah thetbaat halu adi ngaak jengjih tatam jeeka?”
63 Nhưng Chúa Giê-xu vẫn im lặng không đáp. Thầy thượng tế tiếp: “Tôi buộc ông thề trước Đức Chúa Trời Hằng Sống—hãy nói cho chúng tôi biết, ông có phải là Đấng Mết-si-a, Con Đức Chúa Trời không?”
Enoothong Jisu ah su su ih tongta. Eno Romwah Phokhothoon ah ih we chengta, “Ething Rangte mendi ngah ih an suh thoomhoon thuk hala: baat thaak uh, Rangte Sah Kristo ang uh bah ah.”
64 Chúa Giê-xu đáp: “Các ông đã nói vậy! Trong tương lai, các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên phải Đức Chúa Trời và cỡi mây trời trở lại trần gian.”
Jisu ih ngaakbaatta, “An ih liihu ah ju ang ah. Enoothong ngah ih sen loong suh baat rumhala: aadowa ih Mina Sah ah sen ih Elong Rangte damdoh jaawako nah tong arah nyia rangmong hasong nawa jiingmuung damdoh raaha rah tup an!”
65 Thầy thượng tế xé toạc chiếc áo lễ đang mặc, thét lên: “Phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa! Quý ngài vừa nghe tận tai lời phạm thượng đó.
Erah dowa ih Romwah Phokhothoon rah ih heh nyuh ah ranhoom ano liita, Rangte kaanju hu! Erah tokkhodoh wahoh haaki takah jamke! Sen ih Rangte kaanju tiit belam jengta rah echaat ettan.
66 Vậy quý ngài quyết định thế nào?” Họ đáp: “Nó đáng bị tử hình!”
Sen ih mamet thunhan?” Miloong ah li rumta, “Heh emoong ela eno tek haat jaatjaat etjih.”
67 Họ đua nhau khạc nhổ vào mặt Chúa Giê-xu, đánh đấm, tát tai Ngài,
Eno heh the adi took rum ano buh rumta; erah dam ih heh botte rah ih
68 rồi nói: “Này, Đấng Mết-si-a! Đoán xem ai vừa đánh anh đó?”
liita, “Seng tiit ah taat ban jat thaak uh Kristo ang uh bah ah! Jatthaak uh o eh buh taho!”
69 Trong khi đó, Phi-e-rơ vẫn ngồi ngoài sân. Một đầy tớ gái đến nhìn mặt ông và nói: “Anh cũng là một trong các môn đệ của Giê-xu, người Ga-li-lê.”
Pitar ah nok taakkhuung ni tong adi Romwah Phokhothoon laksuh minuh ah kah ano liita, “An nep Galili nawa Jisu damdi angtu.”
70 Nhưng Phi-e-rơ chối trước mặt mọi người: “Chị nói gì, tôi không hiểu!”
Eno heh ih loongtang dung ni daanta. “An ih tumjih tiit baat hu erah ngah ih tajatkang,” Pitar ih ngaakbaat ano,
71 Thấy ông đi ra cổng, một chị đầy tớ khác báo cho bọn gác cổng: “Anh này là môn đệ của Giê-xu người Na-xa-rét.”
erah dowa kaawan ko ih dokkhoom kata. Romwah Phokhoh laksuh nuhoh ih we tup ano erah dowa miloong asuh baat rumta, “Najaret dowa Jisu damdi heh angta.”
72 Phi-e-rơ lại chối: “Tôi thề chẳng hề quen biết người đó!”
Eno Pitar ih daan ano we ngaak liita, “Ngah ethoom nep jen eang ngah ih erah mih ah tajatkang!”
73 Một lát sau, bọn người đứng chung quanh lại tố Phi-e-rơ: “Đúng rồi! Anh cũng là một trong bọn họ; anh nói đặc giọng Ga-li-lê, còn chối cãi gì nữa!”
Amasah ritdi erah di chap rumta miloong ah Pitar reeni kata. “Amiimi anbah neng dam dowa ju angkoko,” Miloong ah ih liita. “Sen Galili nok hah loong ah sen jeng nawa ih jatjoh hi!”
74 Phi-e-rơ liền thề: “Sự rủa sả ở trên tôi nếu tôi dối trá—tôi không hề quen biết người đó!” Lập tức có tiếng gà gáy.
Eno Pitar ih liita, “Ngah ih thoomhoon damdi ami tiit baat rumhala! Rangte ih toomjat kohang, ngah ih tajatkang liitang ah hahuung tiit baatkang bah ah! Ngah ih erah mih ah tajatkang!” Erah damdam woh ah weeta,
75 Phi-e-rơ sực nhớ lời Chúa Giê-xu: “Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.” Rồi ông bước ra ngoài, khóc lóc đắng cay.
eno Pitar ih Jisu jengta ah samthunta: “Woh maang weeka doh an ih tajatkang ih lekjom jeng uh.” Heh dokkhoom kah ano rapne ih huung kata.

< Ma-thi-ơ 26 >