< Ma-thi-ơ 26 >

1 Giảng dạy xong, Chúa Giê-xu bảo các môn đệ:
Bhwakati Yesu amalili kujobha malobhi ghoha agha, akabhajobhela bhanafunzi bha muene,
2 “Các con biết còn hai ngày nữa đến lễ Vượt Qua, Con Người sẽ bị phản bội và đóng đinh trên cây thập tự.”
“Mmanyili kujha baada jha magono mabhele kubetakujha ni sikukuu jha pasaka, ni Mwana ghwa Adamu ibetakuletibhwa ili asulubibhwayi.”
3 Chính lúc ấy, các thầy trưởng tế và các trưởng lão họp tại dinh thầy thượng tế Cai-phe,
Baadaye bhabhaha bha makuhani ni bhaseya bha bhanu bhabhonene pamonga mu makao gha Kuhani Mbaha, jhaakutibhweghe Kayafa.
4 tìm âm mưu để bắt giết Chúa Giê-xu.
Kwa pamonga bhapangili njama jha kun'kamula Yesu kwa siri ni kun'koma.
5 Họ quyết định chờ qua ngày lễ, để dân chúng khỏi náo động.
Kwa kujha bhajobhili, “Isibhombeki bhwakati bhwa sikukuu, kusudi jhisijhi jhikajhaghasia mugati mwa bhanu,”
6 Chúa Giê-xu vào nhà Si-môn, một người phong hủi tại làng Bê-tha-ni.
Bhwakati Yesu ajhele Bethania mu nyumba jha Simoni mkoma,
7 Chúa đang ngồi ăn, một thiếu phụ bước vào, mang theo bình ngọc thạch đựng dầu thơm rất đắt tiền. Chị đổ trên đầu Chúa.
bho akinyosisi pa meza, n'dala mmonga akahida kwa muene akajha apendili nkebe ghwa alabasta jhajhijhela ni mafuta ghenye thamani mbaha, na aghamimini panani pa mutu bhwa muene.
8 Các môn đệ tức giận trách: “Phí của quá!
Lakini bhanafunzi bha muene bhobhabhuene lijambo lala, bhakadada ni kujobha, “Kiki ndabha jha hasara ejhu?
9 Sao không đem bán bình dầu thơm lấy số tiền lớn cứu trợ người nghèo?”
Aghu ngaghabhwesi kugolesibhwa kwa kiasi kibhaha ni kupelibhwa maskini,”
10 Biết dụng ý của họ, Chúa Giê-xu can thiệp: “Sao các con quở trách chị ấy? Chị đã làm một việc tốt đẹp cho Ta.
Lakini Yesu, akajha amanyili elu, akabhajobhela, “Kwa ndabha jha kiki mkandombosya n'dala ojhu? Kwa kujha abhombili mambo manofu kwa nene.
11 Các con còn nhiều cơ hội giúp đỡ người nghèo, nhưng không có Ta luôn luôn.
Maskini mjhenabhu magono ghoha, lakini mwibeta lepi ni nene daima.
12 Chị đã xức dầu tẩm liệm thân Ta trước ngày mai táng.
Kwa ndabha bho amimini mafuta agha panani pa mb'ele bhuangu, abhombili aghu kwandabha jha maziku ghangu.
13 Ta cho các con biết, việc làm của chị hôm nay sẽ được nhắc nhở ca tụng khắp thế giới, tại những nơi Phúc Âm được truyền bá.”
Bhukuweli nikabhajobhela, popoha pala Injili ejhe jhibetakuhubiribhwa mu bhulimwengu mzima, khenu kya abhombili n'dala ojho, pia kibeta kujobhibhwa kwa ndabha jha kumbukumbu.”
14 Lúc ấy, một trong mười hai sứ đồ tên Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đến tiếp xúc với các thầy trưởng tế.
Ndipo mmonga ghwa bhala kumi ni bhabhele, jhaakutibhweghe Yuda Iskarioti, alotili kwa bhabhaha bha makuhani
15 Giu-đa hỏi: “Nếu tôi bắt Thầy tôi nộp cho các ông, các ông thưởng bao nhiêu?” Họ đồng ý trả ba mươi lạng bạc, và cân ngay số bạc cho Giu-đa.
ni kujobha, “Mwibetakunipela kiki kama nin'saliti?” Bhakamp'emela Yuda fipandi thelathini fya fedha.
16 Từ đó, Giu-đa tìm cơ hội nộp Chúa Giê-xu.
Tangia muda obhu akalonda muda ghwa kun'saliti.
17 Ngày đầu lễ Vượt Qua—trong ngày lễ này, người Do Thái chỉ ăn bánh không men—các môn đệ đến hỏi Chúa Giê-xu: “Thầy muốn ăn lễ Vượt Qua tại đâu? Xin Thầy chỉ bảo để chúng con sửa soạn.”
Hata ligono lya kubhwandelu lya mikate ghya ghisopibhu lepi chachu, bhanafunzi bhakandotela Yesu ni kujobha, “Ndaku ghwilonda tukujhandalilayi uliaghi kyakulya kya Pasaka?”
18 Chúa đáp: “Các con vào thành tìm một người, rồi nói: ‘Thầy bảo: Giờ Ta gần đến, Ta và các môn đệ sẽ dự lễ Vượt Qua tại nhà anh.’”
Akabhajobhela, “Mulotayi kumjini kwa munu fulani na mun'jobhilayi, Mwalimu ijobha, “Muda ghwa nene ukaribili. Nibetakujhitimisya Pasaka pamonga ni bhanafunzi bhangu mu nyumba jha jhobhi.””
19 Các môn đệ làm đúng theo lời Chúa Giê-xu và chuẩn bị lễ Vượt Qua.
Bhanafunzi bhakabhomba kama Yesu kya abhabholili, na bhajhendele kyakulya kya Pasaka.
20 Đến tối, Chúa Giê-xu ngồi ăn với mười hai sứ đồ.
Bhojhifikili kimihi, atamili pamonga ni bhanafunzi kumi na bhabhele.
21 Giữa bữa ăn, Chúa phán: “Ta quả quyết, một người trong các con sẽ phản Ta!”
Bhobhiliya kyakulya, akajobha, “Kweli nikabhajobhela mmonga bhinu ibetakunisaliti.”
22 Các môn đệ vô cùng buồn bực, lần lượt hỏi Chúa: “Thưa Chúa, có phải con không?”
Bhahuzuniki sana, na khila mmonga akayanda kun'kota, “Je, hakika nenelepi, Bwana?”
23 Chúa đáp: “Người nào nhúng bánh vào đĩa với Ta là người phản Ta.
Akabhajibu, “Y'ola ambajhe ijhina kibhoko kya muene pamonga ni nene mu bakuli ndo jhaibeta kun'saliti.
24 Con Người phải chết như lời Thánh Kinh nói trước. Nhưng khốn cho kẻ phản Con Người. Thà nó chẳng sinh ra còn hơn!”
Mwana ghwa Adamu ibetakubhoka, kama kyajhilembibhu. Lakini ole bhwake munu ambajhe ibetakun'saliti Mwana ghwa Adamu! Ngajhijhele kinofu kwa munu ojhu asihogoleki.”
25 Giu-đa cũng giả vờ hỏi: “Thưa Thầy, có phải con không?” Chúa Giê-xu đáp: “Chính con đã nói điều đó.”
Yuda, ambajhe an'saliti ajobhili, “Je!, Ndo nene Rabi?” Yesu akan'jobhela, “Ujobhili lijambo elu ghwa muene.”
26 Khi đang ăn, Chúa Giê-xu lấy bánh, cảm tạ rồi bẻ ra trao cho các môn đệ. Ngài dạy: “Đây là thân thể Ta, các con hãy lấy ăn.”
Bho bhilya kyakulya, Yesu aupisili n'kate akabhubariki, ni kubhumetula. Akabhapela bhanafunzi bha muene akajobha, “Mutolayi, muliajhi. Obho ndo mb'ele bhwangu.”
27 Chúa cũng rót nước nho, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi đưa cho các môn đệ:
Akapisya kikombi ni kubhombesya, akabhapela ni kujobha, “Munywajhi mwabhoha o'mo.
28 “Các con hãy uống vì đây là máu Ta, máu đổ ra cho nhiều người được tha tội, ấn chứng Giao Ước mới giữa Đức Chúa Trời và nhân loại.
Kwa kujha ejhe ndo lilopa lya agano lyangu, jhejhijhitika kwa ndabha jha bhingi kwa n'samaha ghwa dhambi.
29 Ta cho các con biết: Ta sẽ không uống nước nho này nữa cho đến ngày uống nước nho mới với các con trong Nước Cha Ta.”
Lakini nikabhajobhela, nibetakunywa lepi matunda gha mzabibu obho hadi ligono lela panibetakunywa mpya pamonga namu mu bhufalme bhwa Tata ghwa nene.”
30 Hát thánh ca xong, Chúa và các môn đệ lên núi Ô-liu.
Bho bhamalili kujhemba lwembu, bhakabhoka kulota ku Kidonda kya Mizeituni.
31 Chúa Giê-xu phán với họ: “Đêm nay, các con đều lìa bỏ Ta. Vì Thánh Kinh đã viết: ‘Ta sẽ đánh người chăn, và bầy chiên tan tác.’
Kisha Yesu akabhajobhela, “Pakilu apa mwebhoha mwibetakwikungufula kwandabha jha nene, kwa kujha jhijhandikibhu, Nibetakun'tobha n'chungaji ni kondoo mu likundi bhibetakutabhwanyika.
32 Nhưng sau khi sống lại, Ta sẽ qua xứ Ga-li-lê gặp các con.”
Lakini baada jha kufufuka kwa nene, nibetakubhalongolela kulota Galilaya.”
33 Phi-e-rơ thưa: “Dù mọi người lìa bỏ Thầy, con cũng sẽ chẳng bao giờ xa Thầy.”
Lakini Petro akan'jobhela, “Hata kama bhoha bhibetakubela kwa ndabha jha mambo ghaghibeta kukabha, nene nibetalepi kubela.”
34 Chúa Giê-xu đáp: “Ta quả quyết với con, Phi-e-rơ—đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.”
Yesu akan'jibu, “Bhukweli nikubhola, pakilu apa kabla jha likongobhe lyakona kubheka, ghwibeta kunilela mara sidatu.”
35 Phi-e-rơ thưa: “Dù phải chết với Thầy, con cũng sẽ không bao giờ chối Thầy!” Các môn đệ khác cũng đều quả quyết như thế.
Petro akan'jobhela, “hata kama ngajhilondekeghe kufwa ni bhebhe, nganikubelili lepi.” Ni bhanafunzi bhangi bhoha bhajobhili mebhu.
36 Chúa Giê-xu đi với các môn đệ vào vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài phán: “Các con ngồi đây, đợi Ta đi cầu nguyện đàng kia!”
Baadaye Yesu akalota nabhu mahali pa pikutibhwa Gethsemane na abhajobhili bhanafunzi bha muene, “Mutamanyi apa bhwakati nilota okhu nikus'oma.”
37 Chúa chỉ đem Phi-e-rơ cùng hai con trai của Xê-bê-đê, Gia-cơ và Giăng, theo Ngài. Từ lúc đó, Ngài cảm thấy đau buồn sầu não vô cùng.
Akan'tola Petro ni bhana bhabhele bha Zebedayo na akajhanda kwilombosya ni kwilamu.
38 Ngài phán với họ: “Linh hồn Ta buồn rầu tột độ! Các con ở đây thức canh với Ta.”
Kisha akabhajobhela, “Roho jha nene ijhele ni malombosi mabhaha sana, hata kiasi kya kufwa. Musyalayi apa na mukeshayi pamonga nani.”
39 Chúa đi một quãng, rồi quỳ gối sấp mặt xuống đất cầu nguyện: “Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin theo ý Cha, chứ không theo ý Con.”
Akalota palongolo kidogo, akabina kifudifudi, ni kus'oma. Akajobha, “Tata ghwangu kama jhibhwesekana, kikombi ekhe nikijhepajhi. Isjhi kama kyanilonda nene, bali kyaghwilonda bhebhe.”
40 Khi quay lại, Chúa thấy ba môn đệ đang ngủ, Chúa phán với Phi-e-rơ: “Con không thức với Ta được một giờ sao?
Akabhalotela bhanafunzi na abhakolili bhagonili lugono na akan'jobhela Petro, “Kwandabha ya kiki mshindilu kukesha nani kwa lisaa limonga?
41 Phải tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa vào vòng cám dỗ. Vì tâm linh thật muốn, nhưng thể xác yếu đuối!”
Mukeshajhi ni kus'oma kusudi musijhingili majaribuni. Roho i radhi, lakini mb'ele dhaifu.”
42 Chúa Giê-xu đi cầu nguyện lần thứ nhì: “Cha ơi! Nếu chén này không thể dẹp bỏ được cho đến khi Con uống xong, xin ý Cha được thực hiện.”
Akalota mara jha bhubhele ni kus'oma. akajobha, “Tata ghwangu, kama lijambo e'le libhwesya lepi kujhepukika na ni lazima ninywajhi kikombi ekhe, mapenzi ghwa jhobhi ghatimitajhi.”
43 Lần này, Chúa quay lại thấy các môn đệ vẫn ngủ, mắt nhắm nghiền.
Akakerebhuka kabhele ni kubhakholela bhagonili lugono, kwa kujha mihu gha bhene gha jhele masitu.
44 Vậy, Ngài đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng xin như lần trước.
Kisha akabhaleka kabhele akabhoka. Akas'oma mara jha tatu akajobha malobhi ghalaghala.
45 Chúa trở lại, bảo các môn đệ: “Giờ này các con còn ngủ và nghỉ ngơi sao? Đã đến lúc Con Người bị phản nộp vào tay bọn gian ác.
Baadaye Yesu akabhalotela, “Bado mugonili tu ni kup'omoseka? Mulangayi, saa jhikaribili, na Mwana ghwa Adamu isalitibhwa mumabhokho gha bhenye dhambi.
46 Đứng dậy, đi với Ta! Này, kẻ phản Ta đã tới!”
Mujhumukayi tubhoki. Mulangayi, jhola jhaibetakunisaliti ikaribila.”
47 Chúa Giê-xu còn đang nói, Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ xông đến. Theo sau, có một đoàn người cầm gươm dao, gậy gộc, là tay sai của các thầy trưởng tế và các trưởng lão.
Bhwakati badop ilongela, Yuda mmonga kati jha bhala kumi ni bhabhele, akahida. Likundi libhaha lya bhanu lyafikiri pamonga naku likajhalihomela kwa bha bhaha bha makuhani ni bhaseya bha bhanu. Bhahidili ni mapanga ni mabonga.
48 Tên phản Chúa, Giu-đa, ra ám hiệu: “Tôi hôn người nào, các anh cứ bắt giữ ngay!”
Kabhele munu jhaalondejhe kun'saliti Yesu abhapelili ishara, akajobha, “Jhola jhanibetakumbusu, ndo muene. Mun'kamulayi.”
49 Giu-đa trân tráo xông thẳng đến chào Chúa Giê-xu: “Lạy Thầy!” rồi hôn Chúa.
Mara ejhu akahida kwa Yesu ni kujobha, “Salamu, Mwalimu!” Akajhanda kumbusu.
50 Chúa Giê-xu đáp: “Bạn ơi, cứ làm cho xong việc của bạn đi!” Bọn kia liền xông vào bắt giữ Chúa Giê-xu.
Yesu akan'jobhela, “Ndongo bhangu, libhombajhi lela ambalyo likuletili.” Ndipo bhakahida, ni kun'sosolela Yesu fibhoko, ni kun'kamula.
51 Một môn đệ của Chúa rút gươm chém đầy tớ của thầy thượng tế, đứt mất một vành tai.
Langajhi, munu mmonga jha ajhele pamonga ni Yesu, anyosisi kibhokho kya muene akachomola bhupanga bhwake ni kun'tobha n'tumishi ghwa kuhani mbaha, ni kun'dumula mb'olokhot'o jhiakhe.
52 Tuy nhiên, Chúa Giê-xu bảo: “Hãy tra ngay gươm vào vỏ! Vì ai cầm gươm sẽ bị giết bằng gươm.
Ndipo Yesu akan'jobhela, kerebhusijhi bhupanga bhwa jhobhi paubhutolili, kwa kujha bhoha bha bhutumila bhupanga bhibetakujhangamisibhwa kwa bhupanga.
53 Con chẳng biết Ta có quyền xin Cha mười hai quân đoàn thiên sứ đến bảo vệ Ta sao?
Mwidhanila nihotolalepi kun'kuta Tata ghwangu, nu muene akanitumila majeshi zaidi jha kumi na mabhele gha malaika?
54 Nhưng nếu thế thì lời Thánh Kinh đã viết về các việc này làm sao ứng nghiệm được?”
Lakini basi jinsi jhelekhu majhandikhu ngaghabhwesili kutimisibhwa, efe ndo jhilondeka kuh'omela?”
55 Chúa Giê-xu hỏi đoàn người bắt Ngài: “Ta đâu phải trộm cướp mà các ông đem gươm dao, gậy gộc đến bắt? Hằng ngày Ta vẫn ngồi giảng dạy trong Đền Thờ, sao các ông không bắt Ta?
Bhwakati obhu Yesu akabhajobhela bhumati, “Je! Muhidili ni mapanga ni mabonga kunikamula kama n'nyang'anyi? Khila ligono natamili mu lihekalu kumanyisya, na mkanikamuili lepi!
56 Nhưng mọi việc xảy ra đây đều làm ứng nghiệm lời các nhà tiên tri trong Thánh Kinh.” Khi ấy, tất cả các môn đệ đều bỏ Ngài và chạy.
Lakini ghoha agha ghabhombiki ili majhandiku gha manabii ghatimilajhi.” Ndipo bhanafunzi bha muene bhakandeka ni kujumba.
57 Bắt được Chúa rồi, họ giải Ngài đến dinh thầy thượng tế Cai-phe. Các thầy dạy luật và các trưởng lão đã họp mặt đông đủ trong dinh.
Bhala bhabhan'kamuili Yesu bhampeliki kwa Kayafa, Kuhani Mbaha, mahali ambapo bhaandishi ni bhaseya bhajhele bhakibhongeniye pamonga.
58 Trong khi đó, Phi-e-rơ theo sau Chúa xa xa, cho đến khi vào sân dinh thầy thượng tế. Ông len lỏi ngồi chung với bọn tuần cảnh để theo dõi mọi diễn biến.
Lakini Petro amfwatili kumbele kwa patali hadi mu bhukumbi bhwa Kuhani Mbaha. Akajhingila mugati ni kutama pamonga ni bhalinzi alangajhi kyakibetakuh'omela.
59 Các thầy trưởng tế và cả Hội Đồng Quốc Gia tìm bằng chứng dối để khép Chúa Giê-xu vào tội tử hình.
Basi bhabhaha bha makuhani ni libaraza lyoha bhajhele bhilonda bhushahidi bhwa bhudesi dhidi jha Yesu, kusudi bhabhwesiajhi kun'koma.
60 Dù nhiều người đứng lên vu cáo đủ điều, nhưng họ vẫn chưa tìm thấy bằng chứng nào có đủ giá trị. Cuối cùng, hai người tiến lên tố cáo:
Ingabhwa bhakitokisi mashahidi bhingi, Lakini bhakabhilepi sababu jhojhioha jhila. Lakini baadajhe mashahidi bhabhele bhakitokesya palongolo
61 “Người này đã nói: ‘Ta sẽ phá nát Đền Thờ của Đức Chúa Trời rồi xây cất lại trong ba ngày.’”
ni kujobha, “Munu ojho ajobhili, “Nibhwesya kulib'omola lihekalu lya K'yara ni kulijenga kabhele kwa magono madatu.”
62 Thầy thượng tế vùng đứng dậy, hỏi Chúa Giê-xu: “Sao, ông trả lời thế nào về lời tố cáo đó?”
Kuhani Mbaha akajhema ni kun'kota, “Gwibhwesyalepi kujibu? Abha bhikushuhudila kiki dhidi jha bhebhe?”
63 Nhưng Chúa Giê-xu vẫn im lặng không đáp. Thầy thượng tế tiếp: “Tôi buộc ông thề trước Đức Chúa Trời Hằng Sống—hãy nói cho chúng tôi biết, ông có phải là Đấng Mết-si-a, Con Đức Chúa Trời không?”
Lakini Yesu akatama kimya kuhani Mbaha akan'jobhela, “Kama K'yara kyaiishi, nikuamuru utubholajhi, kama bhebhe ndo Kristu, Mwana ghwa K'yara.”
64 Chúa Giê-xu đáp: “Các ông đã nói vậy! Trong tương lai, các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên phải Đức Chúa Trời và cỡi mây trời trở lại trần gian.”
Yesu akan'jibu, “Bhebhe ghwe muene ujobhili lijambo elu. Lakini ni kujobhela, kuh'omela henu ni kujhendelela ghwibetakumbona Mwana ghwa Adamu atamili, kibhokho kya kulia kyenye nghofu, na ihida mu mabhengu gha kunani.”
65 Thầy thượng tế xé toạc chiếc áo lễ đang mặc, thét lên: “Phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa! Quý ngài vừa nghe tận tai lời phạm thượng đó.
Ndipo Kuhani Mbaha akararula maguanda gha muene ni kujobha, “Akufuiri! Je, twilonda kabhele bhushahidi bhwa kiki? Langayi, tajhari mup'eliki ikufuru.
66 Vậy quý ngài quyết định thế nào?” Họ đáp: “Nó đáng bị tử hình!”
Je! Mwibhwasya kiki? bhakan'jibu ni kujobha, “Jhilondeka kufwa.”
67 Họ đua nhau khạc nhổ vào mặt Chúa Giê-xu, đánh đấm, tát tai Ngài,
Kisha bhakamfunyila mata kumihu ni kun'tobha ngumi, ni makofi kwa mabhokho gha bhene,
68 rồi nói: “Này, Đấng Mết-si-a! Đoán xem ai vừa đánh anh đó?”
ni kujobha, “Tulaghulilajhi, bhebhe Kristu. Niani akutobhili?”
69 Trong khi đó, Phi-e-rơ vẫn ngồi ngoài sân. Một đầy tớ gái đến nhìn mặt ông và nói: “Anh cũng là một trong các môn đệ của Giê-xu, người Ga-li-lê.”
Bhwakati obhu Petro ajhele atamili kwibhala mu bhukumbi, ni n'tumishi n'dala akandotela ni kujobha, “Bhebhe pia ukajhele pamonga ni Yesu ghwa Galilaya.”
70 Nhưng Phi-e-rơ chối trước mặt mọi người: “Chị nói gì, tôi không hiểu!”
Lakini akabela mbele jha bhene bhoha, akajobha, nimanyilepi khenu kyaukanijobhela.”
71 Thấy ông đi ra cổng, một chị đầy tớ khác báo cho bọn gác cổng: “Anh này là môn đệ của Giê-xu người Na-xa-rét.”
Bho alotili kwibhala pa ndiangu, n'tumishi jhongi n'dala bho ambwene akabhajobhela bhabhajhele apu kujha, “Munu ojho pia ajhele pamonga ni Yesu ghwa Nazareti.”
72 Phi-e-rơ lại chối: “Tôi thề chẳng hề quen biết người đó!”
Akabela kabhele kwa kulapa, “Nene nimmanyilepi munu ojho.”
73 Một lát sau, bọn người đứng chung quanh lại tố Phi-e-rơ: “Đúng rồi! Anh cũng là một trong bọn họ; anh nói đặc giọng Ga-li-lê, còn chối cãi gì nữa!”
Muda bhufupi baadajhe bhala bhabhajhele bhajhemili karibu, bhakandotela ni kujobha ni Petro, “Kwa hakika bhebhe pia ndo mmonga bha muene, kwa kujha hata lafudhi jha jhobhi jhilasya.”
74 Phi-e-rơ liền thề: “Sự rủa sả ở trên tôi nếu tôi dối trá—tôi không hề quen biết người đó!” Lập tức có tiếng gà gáy.
Ndipo akajhanda kulaani ni kulapa, “Nene nimmanyilepi munu ojho,” na mara ejhu likongobha likabheka.
75 Phi-e-rơ sực nhớ lời Chúa Giê-xu: “Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.” Rồi ông bước ra ngoài, khóc lóc đắng cay.
Petro akakhomboka malobhi ghaabholibhu ni Yesu, “Kabla jha likongobhe kubheka ghwibeta kunibela mara sidatu.”

< Ma-thi-ơ 26 >