< Ma-thi-ơ 26 >
1 Giảng dạy xong, Chúa Giê-xu bảo các môn đệ:
Miabot nga sa dihang natapos na ni Jesus kining tanan nga mga pulong, miingon siya sa iyang mga disipulo,
2 “Các con biết còn hai ngày nữa đến lễ Vượt Qua, Con Người sẽ bị phản bội và đóng đinh trên cây thập tự.”
“Nasayod kamo nga human sa duha ka adlaw moabot ang adlaw sa Pagsaylo, ug ang Anak sa Tawo igatugyan aron ilansang sa krus.”
3 Chính lúc ấy, các thầy trưởng tế và các trưởng lão họp tại dinh thầy thượng tế Cai-phe,
Unya ang mga pangulong pari ug mga kadagkoan sa katawhan nagkatigom didto sa palasyo sa labawng pari, nga ginganlan ug Caifas.
4 tìm âm mưu để bắt giết Chúa Giê-xu.
Naghiusa silang naglaraw sa pagdakop kang Jesus sa hilom ug sa pagpatay kaniya.
5 Họ quyết định chờ qua ngày lễ, để dân chúng khỏi náo động.
Kay miingon sila, “Dili panahon sa pista, aron nga dili magsugod ang kagubot taliwala sa katawhan.”
6 Chúa Giê-xu vào nhà Si-môn, một người phong hủi tại làng Bê-tha-ni.
Karon samtang si Jesus anaa sa Betania sa balay ni Simon nga sanglahon,
7 Chúa đang ngồi ăn, một thiếu phụ bước vào, mang theo bình ngọc thạch đựng dầu thơm rất đắt tiền. Chị đổ trên đầu Chúa.
samtang nagsandig siya sa kan-anan, ang usa ka babaye miduol kaniya nga adunay usa ka alabastro nga tibod sa mahalon nga pahumot, ug gibubo niya kini didto sa iyang ulo.
8 Các môn đệ tức giận trách: “Phí của quá!
Apan sa dihang nakakita niini ang iyang mga disipulo, nasuko sila ug miingon, “Unsa man ang hinungdan niining pag-usik-usik?
9 Sao không đem bán bình dầu thơm lấy số tiền lớn cứu trợ người nghèo?”
Mahimo pa unta kining ibaligya sa dako nga kantidad ug ihatag ngadto sa mga kabos.”
10 Biết dụng ý của họ, Chúa Giê-xu can thiệp: “Sao các con quở trách chị ấy? Chị đã làm một việc tốt đẹp cho Ta.
Apan si Jesus, nga nasayod niini, miingon kanila, “Nganong ginasamok man ninyo kining babaye? Kay gibuhat niya ang matahom nga butang alang kanako.
11 Các con còn nhiều cơ hội giúp đỡ người nghèo, nhưng không có Ta luôn luôn.
Kanunay ninyong gikauban ang mga kabos, apan dili ninyo ako makauban sa kanunay.
12 Chị đã xức dầu tẩm liệm thân Ta trước ngày mai táng.
Kay sa dihang gibubo niya kining pahumot sa akong lawas, gibuhat niya kini alang sa akong lubong.
13 Ta cho các con biết, việc làm của chị hôm nay sẽ được nhắc nhở ca tụng khắp thế giới, tại những nơi Phúc Âm được truyền bá.”
Sa pagkatinuod moingon ako kaninyo, bisan asa mawali kining ebanghelyo sa tibuok kalibotan, kung unsa man ang nabuhat niini nga babaye masulti usab sa paghinumdom kaniya.”
14 Lúc ấy, một trong mười hai sứ đồ tên Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đến tiếp xúc với các thầy trưởng tế.
Unya ang usa sa napulog duha, nga ginganlan ug Judas Iskariote, miadto sa mga pangulong pari
15 Giu-đa hỏi: “Nếu tôi bắt Thầy tôi nộp cho các ông, các ông thưởng bao nhiêu?” Họ đồng ý trả ba mươi lạng bạc, và cân ngay số bạc cho Giu-đa.
ug miingon, “Unsa man ang andam ninyong ihatag kanako aron sa pagtugyan kaniya nganha kaninyo?” Nagtimbang sila ug 30 kabuok nga plata alang kaniya.
16 Từ đó, Giu-đa tìm cơ hội nộp Chúa Giê-xu.
Sukad niadtong taknaa nangita siya ug kahigayonan sa pagtugyan kaniya ngadto kanila.
17 Ngày đầu lễ Vượt Qua—trong ngày lễ này, người Do Thái chỉ ăn bánh không men—các môn đệ đến hỏi Chúa Giê-xu: “Thầy muốn ăn lễ Vượt Qua tại đâu? Xin Thầy chỉ bảo để chúng con sửa soạn.”
Karon sa unang adlaw sa tinapay nga walay igpapatubo ang mga disipulo miduol kang Jesus ug miingon, “Diin mo man kami buot mangandam alang sa pagkaon nimo sa Pagsaylo nga panihapon?”
18 Chúa đáp: “Các con vào thành tìm một người, rồi nói: ‘Thầy bảo: Giờ Ta gần đến, Ta và các môn đệ sẽ dự lễ Vượt Qua tại nhà anh.’”
Miingon siya, “Adtoa ang usa ka tawo didto sa siyudad ug sultihi siya, 'Ang Magtutudlo nag-ingon, “Ang akong panahon haduol na. Pagabuhaton nako ang Pagsaylo dinhi sa imong balay kauban ang akong mga disipulo.”
19 Các môn đệ làm đúng theo lời Chúa Giê-xu và chuẩn bị lễ Vượt Qua.
Gibuhat sa mga disipulo ang gitugon ni Jesus, ug giandam nila ang pagkaon sa Pagsaylo.
20 Đến tối, Chúa Giê-xu ngồi ăn với mười hai sứ đồ.
Sa dihang miabot na ang kagabhion, milingkod siya aron mokaon kauban ang napulo ug duha ka mga disipulo.
21 Giữa bữa ăn, Chúa phán: “Ta quả quyết, một người trong các con sẽ phản Ta!”
Samtang nangaon sila, miingon siya, “Sa pagkatinuod moingon ako kaninyo nga ang usa kaninyo magluib kanako.”
22 Các môn đệ vô cùng buồn bực, lần lượt hỏi Chúa: “Thưa Chúa, có phải con không?”
Nagmasulub-on sila, ug ang matag usa nagsugod sa pagpangutana kaniya, “Sigurado nga dili ako, Ginoo?”
23 Chúa đáp: “Người nào nhúng bánh vào đĩa với Ta là người phản Ta.
Mitubag siya, “Ang usa nga magtuslob sa iyang kamot uban kanako sa panaksan mao ang magbudhi kanako.
24 Con Người phải chết như lời Thánh Kinh nói trước. Nhưng khốn cho kẻ phản Con Người. Thà nó chẳng sinh ra còn hơn!”
Molakaw ang Anak sa Tawo, sama sa nahisulat mahitungod kaniya. Apan alaot kanang tawhana nga pinaagi kaniya ang Anak sa Tawo budhian! Mas maayo alang nianang tawhana kung wala na lamang siya natawo.”
25 Giu-đa cũng giả vờ hỏi: “Thưa Thầy, có phải con không?” Chúa Giê-xu đáp: “Chính con đã nói điều đó.”
Si Judas, nga mao ang magbudhi kaniya miingon, “Ako ba kana, Rabbi?” Miingon siya kaniya, “Giingon mo na kini sa imong kaugalingon.”
26 Khi đang ăn, Chúa Giê-xu lấy bánh, cảm tạ rồi bẻ ra trao cho các môn đệ. Ngài dạy: “Đây là thân thể Ta, các con hãy lấy ăn.”
Samtang nangaon sila, gikuha ni Jesus ang tinapay, gipanalanginan kini, ug gipikaspikas kini. Gihatag niya kini sa mga disipulo ug miingon, “Dawata, ug kaona. Mao kini ang akong lawas.”
27 Chúa cũng rót nước nho, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi đưa cho các môn đệ:
Gikuha niya ang usa ka kopa ug naghatag ug pagpasalamat, ug gihatag kini kanila ug miingon, “Inom niini, kamong tanan.
28 “Các con hãy uống vì đây là máu Ta, máu đổ ra cho nhiều người được tha tội, ấn chứng Giao Ước mới giữa Đức Chúa Trời và nhân loại.
Kay mao kini ang akong dugo sa pakigsaad nga ibubo sa kadaghanan alang sa kapasayloan sa mga sala.
29 Ta cho các con biết: Ta sẽ không uống nước nho này nữa cho đến ngày uống nước nho mới với các con trong Nước Cha Ta.”
Apan moingon ako kaninyo, dili na ako makainom pag-usab niining bunga sa paras, hangtod sa adlaw dihang moinom ako niini nga bag-o uban kaninyo didto sa gingharian sa akong Amahan.”
30 Hát thánh ca xong, Chúa và các môn đệ lên núi Ô-liu.
Sa dihang miawit sila ug mga alawiton, miadto sila sa Bungtod sa mga Olibo.
31 Chúa Giê-xu phán với họ: “Đêm nay, các con đều lìa bỏ Ta. Vì Thánh Kinh đã viết: ‘Ta sẽ đánh người chăn, và bầy chiên tan tác.’
Unya si Jesus miingon kanila, “Kamong tanan karong gabhiona mabungkag tungod kanako, kay nahisulat kini, 'Pagabunalan ko ang magbalantay ug ang karnero sa panon magkatibulaag.'
32 Nhưng sau khi sống lại, Ta sẽ qua xứ Ga-li-lê gặp các con.”
Apan human sa akong pagkabanhaw, mag-una ako kaninyo didto sa Galilea.”
33 Phi-e-rơ thưa: “Dù mọi người lìa bỏ Thầy, con cũng sẽ chẳng bao giờ xa Thầy.”
Apan si Pedro miingon kaniya, “Bisan kung ang tanan mopalayo tungod kanimo, dili ako mopalayo.”
34 Chúa Giê-xu đáp: “Ta quả quyết với con, Phi-e-rơ—đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.”
Si Jesus miingon kaniya, “Sa pagkatinuod moingon ako kanimo, niini gayong gabhiona sa dili pa motuktugaok ang manok, ilimod mo ako sa makatulo ka higayon.”
35 Phi-e-rơ thưa: “Dù phải chết với Thầy, con cũng sẽ không bao giờ chối Thầy!” Các môn đệ khác cũng đều quả quyết như thế.
Si Pedro miingon kaniya, “Bisan pa kung mamatay ako uban kanimo, dili ko ikaw ilimod.” Ug ang tanang mga disipulo misulti sa samang butang.
36 Chúa Giê-xu đi với các môn đệ vào vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài phán: “Các con ngồi đây, đợi Ta đi cầu nguyện đàng kia!”
Unya si Jesus miadto uban kanila sa dapit nga gitawag ug Getsemane ug miingon sa iyang mga disipulo, “Lingkod dinhi samtang moadto ako didto aron moampo.”
37 Chúa chỉ đem Phi-e-rơ cùng hai con trai của Xê-bê-đê, Gia-cơ và Giăng, theo Ngài. Từ lúc đó, Ngài cảm thấy đau buồn sầu não vô cùng.
Gidala niya si Pedro ug ang duha ka anak nga lalaki ni Zebedeo uban kaniya ug nagsugod sila sa pagkamasulub-on ug naguol.
38 Ngài phán với họ: “Linh hồn Ta buồn rầu tột độ! Các con ở đây thức canh với Ta.”
Unya miingon siya kanila, “Ang akong kalag nagsubo gayod, bisan hangtod sa kamatayon. Pabilin dinhi ug pagtukaw uban kanako.”
39 Chúa đi một quãng, rồi quỳ gối sấp mặt xuống đất cầu nguyện: “Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Nhưng xin theo ý Cha, chứ không theo ý Con.”
Miadto siya sa unahan, mihapa, ug nag-ampo. Miingon siya, “Amahan ko, kung mahimo, tugoti kining kopa nga mosaylo gikan kanako. Apan, dili ang akong pagbuot, kondili ang imong pagbuot.”
40 Khi quay lại, Chúa thấy ba môn đệ đang ngủ, Chúa phán với Phi-e-rơ: “Con không thức với Ta được một giờ sao?
Miadto siya sa iyang mga disipulo ug nakaplagan nga nangatulog sila, ug miingon siya kang Pedro, “Unsa, dili ba kamo makatukaw uban kanako bisan sa usa lamang ka oras?
41 Phải tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa vào vòng cám dỗ. Vì tâm linh thật muốn, nhưng thể xác yếu đuối!”
Pagtukaw ug pag-ampo nga dili kamo madala ngadto sa tintasyon. Andam gayod ang espiritu, apan huyang ang unod.”
42 Chúa Giê-xu đi cầu nguyện lần thứ nhì: “Cha ơi! Nếu chén này không thể dẹp bỏ được cho đến khi Con uống xong, xin ý Cha được thực hiện.”
Mipalayo siya sa ikaduhang higayon ug miampo, miingon siya, “Amahan ko, kung kini dili mosaylo gawas kung imnon ko kini, ang imong kabubut-on maoy matuman.”
43 Lần này, Chúa quay lại thấy các môn đệ vẫn ngủ, mắt nhắm nghiền.
Mibalik na usab siya ug nakaplagan nga nangatulog sila, kay nagbug-at na ang ilang mga mata.
44 Vậy, Ngài đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng xin như lần trước.
Unya gibiyaan niya sila pag-usab ug mipalayo. Nag-ampo siya sa ikatulo nga higayon ug gisulti ang sama nga mga pulong.
45 Chúa trở lại, bảo các môn đệ: “Giờ này các con còn ngủ và nghỉ ngơi sao? Đã đến lúc Con Người bị phản nộp vào tay bọn gian ác.
Unya miadto si Jesus sa mga disipulo ug miingon ngadto kanila, “Natulog ba gihapon kamo ug nagpahulay? Tan-awa, ang takna ania na, ug gibudhian na ang Anak sa Tawo ngadto sa kamot sa mga makasasala.
46 Đứng dậy, đi với Ta! Này, kẻ phản Ta đã tới!”
Tindog, manglakaw na kita. Tan-awa, ang usa nga maoy magbudhi kanako haduol na.”
47 Chúa Giê-xu còn đang nói, Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ xông đến. Theo sau, có một đoàn người cầm gươm dao, gậy gộc, là tay sai của các thầy trưởng tế và các trưởng lão.
Samtang nagsulti pa siya, si Judas, ang usa sa napulo ug duha, miabot. Ang dakong panon sa katawhan miabot uban kaniya gikan sa pangulong pari ug mga kadagkoan sa katawhan. Miabot sila uban ang mga espada ug mga bunal.
48 Tên phản Chúa, Giu-đa, ra ám hiệu: “Tôi hôn người nào, các anh cứ bắt giữ ngay!”
Karon ang tawo nga maoy mobudhi kang Jesus naghatag kanila ug ilhanan, nga nag-ingon, “Kung si kinsa ang akong halokan, siya na kana. Dakpa siya.”
49 Giu-đa trân tráo xông thẳng đến chào Chúa Giê-xu: “Lạy Thầy!” rồi hôn Chúa.
Dihadiha miduol siya kang Jesus ug miingon, “Kumusta, Rabbi!” Ug gihalokan niya siya.
50 Chúa Giê-xu đáp: “Bạn ơi, cứ làm cho xong việc của bạn đi!” Bọn kia liền xông vào bắt giữ Chúa Giê-xu.
Si Jesus miingon kaniya, “Higala, buhata ang imong gianhi dinhi nga buhaton.” Unya miduol sila, gigunitan si Jesus, ug gidakop siya.
51 Một môn đệ của Chúa rút gươm chém đầy tớ của thầy thượng tế, đứt mất một vành tai.
Tan-awa, ang usa niadtong kauban ni Jesus mituy-od sa iyang kamot, mihulbot sa iyang espada, ug mitigbas sa sulugoon sa labawng pari, ug naputol ang iyang dalunggan.
52 Tuy nhiên, Chúa Giê-xu bảo: “Hãy tra ngay gươm vào vỏ! Vì ai cầm gươm sẽ bị giết bằng gươm.
Unya miingon si Jesus kaniya, “Ibalik ang imong espada sa iyang butanganan, kay ang tanan niadtong naghulbot sa espada mahanaw pinaagi sa espada.
53 Con chẳng biết Ta có quyền xin Cha mười hai quân đoàn thiên sứ đến bảo vệ Ta sao?
Naghunahuna ka ba nga dili ako makatawag sa akong Amahan, ug mopadala siya kanako ug labaw pa sa napulo ug duha ka panon sa mga anghel?
54 Nhưng nếu thế thì lời Thánh Kinh đã viết về các việc này làm sao ứng nghiệm được?”
Apan unsaon unya pagkatuman sa kasulatan, kinahanglan nga mahitabo gayod kini?”
55 Chúa Giê-xu hỏi đoàn người bắt Ngài: “Ta đâu phải trộm cướp mà các ông đem gươm dao, gậy gộc đến bắt? Hằng ngày Ta vẫn ngồi giảng dạy trong Đền Thờ, sao các ông không bắt Ta?
Niadtong taknaa miingon si Jesus ngadto sa panon sa katawhan, “Migawas ba kamo uban sa mga espada ug mga bunal aron sa pagdakop kanako sama sa usa ka tulisan? Naglingkod ako matag adlaw didto sa templo ug nagtudlo, ug wala ninyo ako dakpa.
56 Nhưng mọi việc xảy ra đây đều làm ứng nghiệm lời các nhà tiên tri trong Thánh Kinh.” Khi ấy, tất cả các môn đệ đều bỏ Ngài và chạy.
Apan kining tanan mahitabo aron nga ang mga sinulat sa mga propeta matuman.” Unya ang tanang mga disipulo mibiya kaniya ug mipalayo.
57 Bắt được Chúa rồi, họ giải Ngài đến dinh thầy thượng tế Cai-phe. Các thầy dạy luật và các trưởng lão đã họp mặt đông đủ trong dinh.
Kadtong nagdakop kang Jesus nangulo kaniya palayo didto kang Caifas ang labawng pari, diin ang mga eskriba ug ang mga kadagkoan naghiusa pagtigom.
58 Trong khi đó, Phi-e-rơ theo sau Chúa xa xa, cho đến khi vào sân dinh thầy thượng tế. Ông len lỏi ngồi chung với bọn tuần cảnh để theo dõi mọi diễn biến.
Apan si Pedro nagsunod kaniya sa halayo lamang didto sa hawanan sa labawng pari. Miadto siya sa sulod ug milingkod uban sa mga guwardiya aron makita ang mahitabo.
59 Các thầy trưởng tế và cả Hội Đồng Quốc Gia tìm bằng chứng dối để khép Chúa Giê-xu vào tội tử hình.
Karon ang mga pangulong pari ug ang tibuok Konseho nangita ug mga bakak nga pagpamatuod batok kang Jesus, aron nga mabutang nila siya sa kamatayon.
60 Dù nhiều người đứng lên vu cáo đủ điều, nhưng họ vẫn chưa tìm thấy bằng chứng nào có đủ giá trị. Cuối cùng, hai người tiến lên tố cáo:
Apan wala gayod silay nakaplagan nga bisan unsa, bisan tuod daghang mga mini nga mga tigpamatuod ang miadto sa atubangan. Apan sa kadugayan adunay duha nga miadto sa atubangan
61 “Người này đã nói: ‘Ta sẽ phá nát Đền Thờ của Đức Chúa Trời rồi xây cất lại trong ba ngày.’”
ug miingon, “Kining tawhana miingon, 'Makahimo ako sa pagguba sa templo sa Dios ug tukoron kini pag-usab sulod sa tulo ka adlaw.'”
62 Thầy thượng tế vùng đứng dậy, hỏi Chúa Giê-xu: “Sao, ông trả lời thế nào về lời tố cáo đó?”
Ang labawng pari mitindog ug miingon kaniya, “Wala ka bay itubag? Unsa man kining ginapamatud-an nila batok kanimo?”
63 Nhưng Chúa Giê-xu vẫn im lặng không đáp. Thầy thượng tế tiếp: “Tôi buộc ông thề trước Đức Chúa Trời Hằng Sống—hãy nói cho chúng tôi biết, ông có phải là Đấng Mết-si-a, Con Đức Chúa Trời không?”
Apan naghilom lamang si Jesus. Ang labawng pari miingon kaniya, “Gimandoan ko ikaw pinaagi sa buhi nga Dios, sultihi kami kung ikaw ba ang Cristo, ang Anak sa Dios.”
64 Chúa Giê-xu đáp: “Các ông đã nói vậy! Trong tương lai, các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên phải Đức Chúa Trời và cỡi mây trời trở lại trần gian.”
Mitubag si Jesus, “Giingon mo na kini sa imong kaugalingon. Apan sultihan ko ikaw, sukad karon makakita na kamo sa Anak sa Tawo nga molingkod sa tuong kamot sa Gahom, ug moanhi ibabaw sa mga panganod sa langit.”
65 Thầy thượng tế xé toạc chiếc áo lễ đang mặc, thét lên: “Phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa! Quý ngài vừa nghe tận tai lời phạm thượng đó.
Unya ang labawng pari migisi sa iyang mga bisti ug miingon, “Nagsulti siya ug pagpasipala! Nganong nanginahanglan pa man kita ug mga saksi? Tan-awa, nadungog na ninyo karon ang pagpasipala.
66 Vậy quý ngài quyết định thế nào?” Họ đáp: “Nó đáng bị tử hình!”
Unsa man ang inyong hunahuna?” Mitubag sila ug miingon, “Angay siya sa kamatayon.”
67 Họ đua nhau khạc nhổ vào mặt Chúa Giê-xu, đánh đấm, tát tai Ngài,
Unya giluwaan nila ang iyang dagway ug gikulata siya, ug gihapak siya sa palad sa ilang mga kamot,
68 rồi nói: “Này, Đấng Mết-si-a! Đoán xem ai vừa đánh anh đó?”
ug miingon, “Tagnaa kami, ikaw nga Cristo. Kinsa man kadtong mihapak kanimo?”
69 Trong khi đó, Phi-e-rơ vẫn ngồi ngoài sân. Một đầy tớ gái đến nhìn mặt ông và nói: “Anh cũng là một trong các môn đệ của Giê-xu, người Ga-li-lê.”
Karon si Pedro naglingkod sa gawas sa hawanan, ug ang usa ka sulugoon nga babaye miduol kaniya ug miingon, “Kauban ka usab ni Jesus nga taga-Galilea.”
70 Nhưng Phi-e-rơ chối trước mặt mọi người: “Chị nói gì, tôi không hiểu!”
Apan gilimod niya kini sa atubangan nilang tanan, nga nag-ingon, “Wala ako masayod kung unsa ang inyong gipanulti.”
71 Thấy ông đi ra cổng, một chị đầy tớ khác báo cho bọn gác cổng: “Anh này là môn đệ của Giê-xu người Na-xa-rét.”
Sa dihang migawas siya ngadto sa ganghaan, ang laing sulugoon nga babaye nakakita kaniya ug miingon niadtong anaa didto, “Kining tawhana kauban usab ni Jesus nga taga-Nazaret.”
72 Phi-e-rơ lại chối: “Tôi thề chẳng hề quen biết người đó!”
Ug milimod na usab siya uban sa panumpa, “Wala ako makaila nianang tawhana.”
73 Một lát sau, bọn người đứng chung quanh lại tố Phi-e-rơ: “Đúng rồi! Anh cũng là một trong bọn họ; anh nói đặc giọng Ga-li-lê, còn chối cãi gì nữa!”
Pagkataodtaod kadtong mga nanagtindog miduol ug miingon kang Pedro, “Sigurado nga ikaw usab usa kanila, kay ang imong paagi sa pagsulti maoy nagpaila kanimo.”
74 Phi-e-rơ liền thề: “Sự rủa sả ở trên tôi nếu tôi dối trá—tôi không hề quen biết người đó!” Lập tức có tiếng gà gáy.
Unya nagsugod na siya sa pagpanunglo ug nanumpa, “Wala ako makaila nianang tawhana,” ug dihadiha mituktugaok ang manok.
75 Phi-e-rơ sực nhớ lời Chúa Giê-xu: “Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.” Rồi ông bước ra ngoài, khóc lóc đắng cay.
Nahinumdoman ni Pedro ang mga pulong nga giingon ni Jesus, “Sa dili pa motuktogaok ang manok ilimod mo ako sa makatulong higayon.” Ug miadto siya sa gawas ug mihilak sa hilabihan gayod.