< Giê-rê-mi-a 51 >
1 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: “Này, Ta sẽ giục lòng kẻ hủy diệt tiến đánh Ba-by-lôn và cả xứ người Canh-đê, để tiêu diệt nó.
Mao kini ang giingon ni Jehova: Ania karon, ako motindog batok sa Babilonia, ug batok kanila nga nagapuyo sa Leb-kamai, usa ka malaglagong hangin.
2 Dân ngoại quốc sẽ đến và sàng sảy nó, thổi sạch nó như rơm rạ. Trong ngày nó gặp hoạn nạn, quân thù từ khắp nơi kéo đến vây đánh nó.
ug ang Babilonia padad-an ko ug mga dumuloong nga maoy moalig-ig kaniya; ug huboan nila ang iyang yuta: kay sa adlaw sa kasamok sila mosukol kaniya sa tanang dapit.
3 Đừng để các xạ thủ kịp mặt áo giáp hay kéo cung tên. Đừng tha ai hết, cả những chiến sĩ giỏi! Hãy để toàn quân của nó bị tuyệt diệt.
Pabusoga ang magpapana sa iyang pana batok niadtong nagabusog, ug batok niadtong mituyhakaw sa iyang kaugalingon sulod sa iyang kotamaya: ug ayaw pagpagawasa ninyo ang iyang mga batan-ong lalake; laglagon gayud ninyo ang tanan niyang panon.
4 Chúng sẽ ngã chết la liệt trên đất Ba-by-lôn bị đâm chết giữa các đường phố.
Ug sila mangapukan nga pinatay sa yuta sa mga Caldeahanon, ug panglagbasan sa hinagiban diha sa iyang kadalanan.
5 Vì Chúa Hằng Hữu Vạn Quân không lìa bỏ Ít-ra-ên và Giu-đa. Ngài vẫn là Đức Chúa Trời của họ, dù đất nước họ đầy tội lỗi nghịch với Đấng Thánh của Ít-ra-ên.”
Kay ang Israel wala biyai, ni ang Juda, sa iyang Dios, wala biyai ni Jehova sa mga panon; bisan ang ilang yuta napuno sa sala batok sa Balaan sa Israel.
6 Hãy trốn khỏi Ba-by-lôn! Hãy chạy cho toàn mạng! Đừng vì tội lỗi nó mà chịu chết lây! Vì đây là thời kỳ báo ứng của Chúa; Ngài sẽ hình phạt xứng đáng.
Kumalagiw kamo ngadto sa gawas sa taliwala sa Babilonia, ug luwason sa tagsatagsa ka tawo ang iyang kinabuhi; ayaw kamo pagpahimulag diha sa iyang pagkadautan: kay kini mao ang panahon sa pagpanimalus ni Jehova; siya mohatag kaniya ug usa ka balus.
7 Ba-by-lôn vốn là một cái chén vàng trong tay Chúa Hằng Hữu, chén được làm để cho cả thế giới uống. Các dân tộc đã uống rượu của Ba-by-lôn, và khiến họ say điên cuồng.
Sa kamot ni Jehova ang Babilonia nahimong copa nga bulawan, nga nakapahubog sa tibook nga yuta: ang mga nasud nakainum sa iyang vino busa ang mga nasud nangabuang.
8 Nhưng Ba-by-lôn sẽ thình lình sụp đổ. Hãy khóc than nó. Cho nó thuốc men. May ra nó có thể được chữa lành.
Ang Babilonia sa kalit nahulog ug nalumpag: magbakho kamo alang kaniya; pagkuha kamo ug balsamo alang sa iyang kaul-ol, kong pinaagi niana mamaayo siya.
9 Nếu có thể, chúng ta cũng cứu giúp nó, nhưng bây giờ không có gì có thể cứu nó. Hãy để nó đi; hãy lìa bỏ nó. Mỗi người chúng ta hãy quay về quê hương xứ sở. Vì sự đoán phạt nó lên đến tận trời; cao đến nỗi không thể đo lường được.
Kita buot unta nga mamaayo ang Babilonia, apan siya dili mamaayo: biyai siya, ug mangadto kitang tagsatagsa sa kaugalingon niyang yuta; kay ang iyang paghukom moabut ngadto sa langit, ug gibayaw sa itaas bisan ngadto sa kalangitan.
10 Chúa Hằng Hữu đã minh oan cho chúng ta. Hãy đến, chúng ta hãy công bố tại Si-ôn mọi việc mà Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời chúng ta đã làm.
Gipadayag ni Jehova ang atong pagkamatarung: umari kamo ug ipahayag nato sa Sion ang buhat ni Jehova nga atong Dios.
11 Hãy chuốt mũi tên cho nhọn! Hãy đưa khiên lên cho cao! Vì Chúa Hằng Hữu đã giục lòng các vua Mê-đi thi hành kế hoạch tấn công và tiêu diệt Ba-by-lôn. Đây là sự báo trả của Chúa, báo trả cho Đền Thờ của Ngài.
Baira ninyo ang mga udyong, kuptan ninyo ug maayo ang mga kalasag: si Jehova nag-agda sa espiritu sa mga hari sa nga Madianhon; kay ang iyang tuyo batok man sa Babilonia, aron sa paglumpag niana: tungod kay kini mao ang panimalus ni Jehova, ang panimalus sa iyang templo.
12 Hãy dựng cờ chống lại tường lũy Ba-by-lôn! Hãy tăng cường lính canh, đặt thêm trạm gác. Chuẩn bị phục kích, vì Chúa Hằng Hữu đã hoàn tất chương trình của Ngài chống lại Ba-by-lôn.
Ipatindog ang bandila batok sa mga kuta sa Babilonia, lig-ona ang bantayan, patindoga ang mga magbalantay, andama ang mga banhiganan: kay si Jehova nagtinguha ug naghimo nianang iyang gisulti mahitungod sa mga pumoluyo sa Babilonia.
13 Ngươi là thành sống giữa các dòng sông, là trung tâm giao thương lớn, nhưng ngươi đã đến ngày tận số. Dòng đời ngươi đã chấm dứt.
Oh ikaw nga nagapuyo sa daghang katubigan, buhong sa mga bahandi, ang imong katapusan miabut na, ang sukdanan sa imong kaibog.
14 Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã có lời thề và lấy Danh Ngài mà thề rằng: “Địch quân sẽ tràn ngập các thành ngươi như hàng triệu cào cào cắn phá, tiếng chúng reo hò chiến thắng vang dội khắp nơi.”
Si Jehova sa mga panon nanumpa sa iyang kaugalingon, sa pag-ingon: Sa pagkatinuod pun-on ko ikaw sa mga tawo, ingon sa pagkapuno sa mga ulod sa alibangbang; ug sila mopatugbaw ug usa ka singgit batok kanimo.
15 Chúa Hằng Hữu sáng tạo địa cầu bởi quyền năng và Ngài đã bảo tồn bằng sự khôn ngoan. Với tri thức của chính Chúa, Ngài đã giăng các tầng trời.
Iyang gibuhat ang yuta pinaagi sa iyang gahum, iyang gitukod ang kalibutan pinaagi sa iyang kaalam, ug nagbuklad sa langit pinaagi sa iyang salabutan.
16 Khi Chúa phán liền có tiếng sấm vang, các tầng trời phủ đầy nước. Ngài khiến mây dâng cao khắp đất. Ngài sai chớp nhoáng, mưa, và gió bão ra từ kho tàng của Ngài.
Sa pagbungat niya sa iyang tingog, may usa ka dinaguok sa mga tubig sa kalangitan, ug iyang gipasaka ang mga inalisngaw gikan sa mga kinatumyan sa yuta; gibuhat niya ang mga kilat alang sa ulan, ug gipagula niya ang hangin gikan sa iyang mga tipiganan.
17 Mọi người đều vô tri, vô giác, không một chút khôn ngoan! Người thợ bạc bị các thần tượng mình sỉ nhục, vì việc tạo hình tượng chỉ là lừa dối. Tượng không có chút hơi thở hay quyền năng.
Ang tagsatagsa ka tawo nahimong mananapon ug walay kaalam; ang tanang magsasalsal sa bulawan gipakaulawan pinaagi sa iyang larawan: kay ang iyang tinunaw nga larawan kabakakan man, ug kanila walay gininhawa.
18 Tượng không có giá trị; là vật bị chế giễu! Đến ngày đoán phạt, tất cả chúng sẽ bị tiêu diệt.
Sila kakawangan man, usa ka buhat sa paglimbong: sa panahon sa pagdu-aw kanila mangahanaw sila.
19 Nhưng Đức Chúa Trời của Gia-cốp không phải là tượng! Vì Ngài là Đấng Sáng Tạo vạn vật và dựng nước Ít-ra-ên của Ngài. Danh Ngài là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân!
Ang bahin ni Jacob, dili sama kanila; kay siya mao ang mag-uumol sa tanang mga butang; ug ang Israel maoy banay sa iyang panulondon: si Jehova sa mga panon mao ang iyang ngalan.
20 “Ngươi là lưỡi rìu và vũ khí chiến trận của Ta,” Chúa Hằng Hữu phán. “Ta sẽ dùng ngươi để đập tan các nước và tiêu diệt nhiều vương quốc.
Ikaw mao ang akong wasay nga iggugubat ug mga hinagiban sa gubat: ug uban kanimo lumpagon ko ang mga nasud, ug uban kanimo bunkagon ko ang mga gingharian;
21 Ta sẽ dùng ngươi chà nát các quân đội— tiêu diệt ngựa và lính kỵ, chiến xa, và người lái xe.
Ug uban kanimo tadtaron ko ang kabayo ug ang nagakabayo kaniya: ug uban kanimo dugmokon ko ang carro ug ang nagsakay kaniya;
22 Ta sẽ dùng ngươi hình phạt đàn ông và phụ nữ, người già và trẻ nhỏ, các thanh niên và thiếu nữ.
Ug uban kanimo pikas-pikason ko ang lalake ug ang babaye, ug uban kanimo pikas-pikason ko ang tiuglang ug ang batan-on; ug uban kanimo pikas-pikason ko ang ulitaw ug ang ulay.
23 Ta sẽ phân tán người chăn lẫn bầy gia súc, nông dân lẫn trâu bò, tướng lãnh lẫn quan chức.
Ug uban kanimo tagtaron ko ang magbalantay ug ang iyang panon sa carnero; ug uban kanimo ipusdak ko ang magdadaro ug ang iyang nayugohan nga vaca; ug uban kanimo ipusdak ko ang mga gobernador ug ang mga tinugyanan.
24 Ta sẽ báo trả Ba-by-lôn và tất cả người Canh-đê vì các việc ác chúng đã làm cho dân Ta tại Giê-ru-sa-lem,” Chúa Hằng Hữu phán vậy.
Ug akong igahatag sa Babilonia ug sa tanang mga pumoluyo sa Caldea ang tanang kadautan nila nga ilang gihimo didto sa Sion diha sa imong atubangan, nagaingon si Jehova.
25 “Này, hỡi núi hùng vĩ, là kẻ tiêu diệt các nước! Ta chống lại ngươi,” Chúa Hằng Hữu phán. “Ta sẽ giá tay đánh ngươi, khiến ngươi lăn xuống từ vách núi. Khi Ta hoàn thành, ngươi sẽ bị cháy rụi.
Ania karon, ako batok kanimo, Oh malaglagong bukid, nagaingon si Jehova, nga nagalaglag sa tibook nga yuta; ug akong pagatuy-oron ang akong kamot diha kanimo, ug ligiron ko ikaw gikan sa mga bato, ug himoon ko ikaw nga usa ka bukid nga nasunog.
26 Ngươi sẽ điêu tàn mãi mãi. Không ai dùng đá từ ngươi để xây nền hay làm đá góc nhà. Ngươi sẽ bị quét sạch khỏi mặt đất,” Chúa Hằng Hữu phán.
Ug sila dili mokuha gikan kanimo ug usa ka bato alang sa usa ka batok sa pamag-ang, ni usa ka bato, alang sa mga patukoranan; ikaw mahimo hinoon nga biniyaan sa walay katapusan, nagaingon si Jehova.
27 Hãy giương cờ trong xứ. Hãy thổi kèn khắp các nước! Chuẩn bị các nước để chiến tranh với Ba-by-lôn. Hãy triệu tập các đội quân A-ra-rát, Minh-ni, và Ách-kê-na. Hãy cử một tướng chỉ huy, và sai ngựa chiến ra trận như châu chấu!
Magpatindog ka ug usa ka bandila sa yuta, patingoga ang trompeta sa taliwala sa mga nasud, andama ang mga nasud batok kaniya, tawga pagtingub batok kaniya ang mga gingharian sa Ararat, Mini, ug sa Askenes: magtudlo ka ug usa ka capitan batok kaniya; pasak-a ang mga kabayo ingon sa mga ulod nga motuyob.
28 Hãy điều động đội quân từ các nước— dẫn đầu bởi vua Mê-đi và tất cả thủ lĩnh và quan cai trị trong xứ đánh nó.
Andama batok kaniya ang mga nasud, ang mga hari sa mga Madianhon, ang mga gobernador niini, ug ang tanang tinugyanan niini, ug ang tibook nga yuta sa ilang ginsakpan.
29 Mặt đất run rẩy và quặn đau, vì tất cả các ý định của Chúa Hằng Hữu về Ba-by-lôn sẽ được thực hiện. Ba-by-lôn sẽ biến thành hoang mạc hoang vắng không còn một bóng người.
Ug ang yuta mokurog ug anaa sa kaul-ol; kay ang mga tuyo ni Jehova batok sa Babilonia tumanon man, sa pagbuhat sa yuta sa Babilonia nga usa ka biniyaan, nga walay mausa nga magapuyo.
30 Các chiến sĩ hùng mạnh của Ba-by-lôn ngừng chiến đấu. Chúng rút vào trong chiến lũy, sức mạnh của họ không còn nữa. Chúng trở nên như phụ nữ. Nhà cửa chúng bị đốt sạch và các then cổng thành đã bị bẻ gãy.
Ang makusganong mga tawo sa Babilonia nagpugong sa pagpakig-away, sila nanagpabilin sa ilang mga salipdanan; ang ilang kusog nawagtang; nahimo sila nga sama sa mga babaye: gisulnog ang iyang mga puloy-anan; ang iyang mga trangka nangabunggo.
31 Hết người đưa tin này đến người đưa tin khác như sứ giả vội vàng báo lên vua rằng thành trì của vua bị chiếm đoạt.
Ang usa ka maghahatod sa mga sulat modalagan sa pagtagbo sa usa, ug ang usa ka sulogoon mosugat sa usa, sa pagpakita sa hari sa Babilonia nga ang iyang ciudad naagaw sa tanang suok:
32 Mọi ngõ ngách trốn chạy đều bị canh giữ. Các đầm lầy bị thiêu cháy, và quân lính đang trong tình trạng hoảng sợ.
Ug ang mga alagianan giagaw, ug ang mga tangbo ilang gisunog sa kalayo, ug ang mga tawong iggugubat nangahadlok:
33 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, phán: “Ba-by-lôn giống như lúa mì trên sân đập lúa, vào kỳ đập lúa. Không bao lâu nữa mùa gặt sẽ bắt đầu.”
Kay mao kini ang giingon ni Jehova sa mga panon, ang Dios sa Israel: Ang anak nga babaye sa Babilonia ingon sa usa ka salug nga giukanan, sa panahon nga kini ginagiukan; ugaling sa diutay lamang nga panahon, ug ang panahon sa pag-ani moabut alang kaniya.
34 “Vua Nê-bu-cát-nết-sa, nước Ba-by-lôn, đã ăn và nghiền nát chúng con và uống cạn sức mạnh của chúng con. Vua nuốt chửng chúng con như quái vật nuốt mồi, làm cho bụng vua đầy của cải châu báu của chúng con. Rồi vua ném chúng con ra khỏi thành mình.
Si Nabucodonosor ang hari sa Babilonia milamoy kanako, siya midugmok kanako, iyang gihimo ako nga sudlanang walay sulod, siya nga ingon sa usa ka dragon milamoy kanako, gipuno niya ang iyang tiyan sa akong lamian nga kalan-on; gisalikway niya ako.
35 Xin khiến Ba-by-lôn đau như nó đã khiến chúng con đau,” dân cư Si-ôn nói. “Nguyện máu của chúng con đổ lại trên người Ba-by-lôn,” Giê-ru-sa-lem nói.
Ang pagdagmal nga gibuhat kanako ug sa akong unod isang-at sa Babilonia, moingon ang mga pumoluyo sa Sion; ug, Ang akong dugo isang-at sa mga pumoluyo sa Caldea, moingon ang Jerusalem.
36 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán về Giê-ru-sa-lem: “Ta sẽ biện hộ cho các con, và Ta sẽ báo thù cho các con. Ta sẽ làm cho sông nó khô và các suối nó cạn,
Busa mao kini ang giingon ni Jehova: Ania karon, ako maoy magalaban sa imong katungod, ug manimalus alang kanimo; ug pamalahon ko ang iyang dagat, ug pamalahon ko ang iyang tuburan.
37 Ba-by-lôn sẽ trở thành một đống đổ nát, thành hang chó rừng. Nó sẽ thành chốn ghê rợn và bị khinh miệt, là nơi không ai ở.
Ug ang Babilonia mahimong mga tinapok nga ginuba, usa ka puloy-anan sa mga iro nga ihalas, usa ka makapatingala, ug usa ka sinitsitan nga uban ang pagbiaybiay, nga walay usa ka pumoluyo.
38 Chúng cùng nhau rống như sư tử tơ. Gầm gừ như sư tử con.
Sila magadungan sa pagpadahunog ingon sa mga magagmay nga leon: sila managngulob ingon sa mga itoy nga leon.
39 Nhưng trong khi chúng nằm say túy lúy, Ta sẽ dọn cho chúng một tiệc rượu khác. Ta sẽ khiến chúng uống đến mê man bất tỉnh, và chúng sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa,” Chúa Hằng Hữu phán vậy.
Sa diha nga abuton sila ug kainit, buhaton ko ang ilang mga kombira, ug sila hubgon ko, aron sila magakalipay, ug matulog sa pagkatulog nga walay katapusan, ug dili na mahigmata, nagaingon si Jehova.
40 “Ta sẽ kéo chúng xuống như chiên con đến hàng làm thịt, như chiên đực và dê bị giết để cúng tế.
Dad-on ko sila ingon sa mga nating carnero ngadto sa ihawan, ingon sa mga lakeng carnero uban sa mga lakeng kanding.
41 Sê-sác đã bị sụp đổ— Ba-by-lôn vĩ đại, thành được cả thế giới ca ngợi! Bây giờ, nó đã trở thành chốn ghê tởm giữa các nước.
Giunsa pagdaug ang Sesach! ug ang pagkaagaw sa dalayegon sa tibook nga yuta! naunsa ang Babilonia nga nahimo man nga biniyaan sa taliwala sa mga nasud!
42 Biển đã tràn ngập Ba-by-lôn; nhận chìm nó dưới các lượn sóng.
Ang dagat misalanap sa Babilonia; siya ginatabonan sa daghang mga balud niini.
43 Các thành nước Ba-by-lôn đều đổ nát; như đồng hoang, như sa mạc, không một người cư trú hay không ai bén mảng đến.
Ang iyang mga ciudad nangahimong biniyaan, usa ka ugang yuta, ug usa ka kamingawan, usa ka yuta nga walay tawo nga nagapuyo, ni adunay anak sa tawo nga molabay niana.
44 Ta sẽ đoán phạt Bên, là thần của Ba-by-lôn, và rứt ra khỏi miệng nó những con mồi nó đã cắn. Các nước không còn kéo lên thờ phượng nó nữa. Thành lũy Ba-by-lôn sẽ sụp đổ!”
Ug ako magasilot kang Bel sa Babilonia, ug ipasuka ko gikan sa iyang baba kadtong iyang gilamoy; ug ang mga nasud dili na magabaha ngadto kaniya: oo, angkuta sa Babilonia mapukan.
45 “Hỡi dân Ta, hãy chạy khỏi Ba-by-lôn. Hãy tự cứu mình! Hãy tránh khỏi cơn giận phừng phừng của Chúa Hằng Hữu.
Katawohan ko, pumahawa kamo gikan sa iyang taliwala, ug luwasa ang inyong kaugalingon, ang tagsatagsa ka tawo gikan sa mabangis nga kasuko ni Jehova.
46 Nhưng đừng kinh hoảng; đừng sợ hãi khi các con nghe tin đồn. Vì tin đồn sẽ tiếp tục dồn dập hết năm này đến năm khác. Bạo lực sẽ nổ ra khắp xứ, lãnh đạo này sẽ chống nghịch lãnh đạo kia.
Ug ayaw pagpaluyaha ang imong kasingkasing, ni mahadlok kamo sa mga balita nga madungog sa yuta; kay ang mga balita moabut sa usa ka tuig, ug sa human niana sa laing tuig moabut ang mga balita, ug ang pagpanlupig diha sa yuta, ang pamuno batok sa pamuno.
47 Chắc chắn thời kỳ Ta đoán phạt thành vĩ đại này và tất cả thần tượng của nó sẽ đến. Cả nước sẽ bị nhục nhã, xác chết đầy dẫy các đường phố.
Busa, ania karon, ang adlaw miabut na, nga ako magapakanaug ug hukom sa mga linilok nga larawan sa Babilonia; ug ang tibook niyang yuta mangalibog; ug ang tanan niyang mga minatay manghay-ad sa taliwala niya.
48 Rồi các tầng trời và đất sẽ vui mừng, vì quân xuất phát từ phương bắc sẽ tấn công và tiêu diệt Ba-by-lôn,” Chúa Hằng Hữu phán vậy.
Unya ang langit ug ang yuta, ug ang tanan nga anaa kaniya, manag-awit tungod sa kalipay ibabaw sa Babilonia: kay ang mga maglalaglag mangabut kaniya gikan sa amihanan, nagaingon si Jehova.
49 “Ba-by-lôn đã tàn sát dân tộc Ít-ra-ên và các nước trên thế giới thế nào, thì nay người Ba-by-lôn cũng bị tàn sát thế ấy.
Maingon nga ang Babilonia nagpahay-ad sa mga minatay sa Israel, mao nga sa Babilonia manghay-ad ang mga minatay sa tibook nga yuta.
50 Hãy bước ra, hỡi những người thoát chết khỏi lưỡi gươm! Đừng đứng đó mà xem—hãy trốn chạy khi còn có thể! Hãy nhớ Chúa Hằng Hữu, dù ở tận vùng đất xa xôi, và hãy nghĩ về nhà mình trong Giê-ru-sa-lem.”
Kamo nga nakagawas sa espada, pamahawa kamo, ayaw paglanga: hinumdumi ninyo si Jehova gikan sa halayo, ug isulod sa inyong panumduman ang Jerusalem.
51 Dân chúng nói: “Nhưng chúng con xấu hổ, chúng con bị sỉ nhục phải trùm mặt lại vì Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu bị quân ngoại bang xâm phạm.”
Kita nangalibog, kay kita nakadungog ug pagkatalamayon: ang kalibog mitabon sa atong mga nawong; kay ang mga lumalangyaw ming-adto sa mga balaang puloy-anan sa balay ni Jehova.
52 Chúa Hằng Hữu đáp: “Đúng vậy, nhưng sắp đến thời kỳ Ta tiêu diệt các thần tượng Ba-by-lôn. Khắp đất nước Ba-by-lôn chỉ nghe tiếng rên la của các người bị thương tích.
Busa, ania karon, ang mga adlaw miabut na, nagaingon si Jehova, nga ako magapakanaug ug hukom sa iyang mga linilok nga larawan; ug sa tibook niyang yuta ang mga samaran manag-agulo.
53 Dù Ba-by-lôn lừng lẫy tận trời, dù cho thành lũy nó vô cùng kiên cố, Ta cũng sai những kẻ tàn hại tiêu diệt nó. Ta, Chúa Hằng Hữu đã phán vậy!”
Bisan ang Babilonia mokayab ngadto sa langit, ug bisan palig-onan niya ug kuta sa gitas-on sa iyang kusog, apan gikan kanako ang mga maglalaglag moadto kaniya, nagaingon si Jehova.
54 “Hãy lắng nghe! Từ Ba-by-lôn có tiếng kêu la vang dội, tiếng tàn phá khốc liệt từ đất của người Ba-by-lôn.
Ang tingog sa usa ka pagsinggit midangat gikan sa Babilonia, ug gikan sa dakung pagkalumpag sa yuta sa mga Caldeahanon!
55 Vì Chúa Hằng Hữu sẽ tàn phá Ba-by-lôn. Chúa bắt nó câm miệng. Các lượn sóng kẻ thù như nước lũ gào thét át mất tiếng kêu của Ba-by-lôn.
Tungod kay ang Babilonia gigun-ob ni Jehova, ug gikan niini gilumpag niya ang dakung tingog; ug ang ilang mga balud modahunog ingon sa daghang katubigan; ang dinahunog sa ilang tingog ginalitok:
56 Kẻ hủy diệt tiến đánh Ba-by-lôn. Các chiến sĩ cường bạo nó sẽ bị bắt, các vũ khí của chúng nó sẽ bị bẻ gãy. Vì Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời hình phạt công minh; Ngài luôn báo trả xứng đáng.
Tungod kay ang manlalaglag mianha kaniya, bisan pa diha sa Babilonia, ug ang iyang mga makusganong tawo hingdakpan, tanan nilang mga pana gipanugmok; kay si Jehova mao ang Dios sa mga pagbalus, sa walay duha-duha siya mohatag na bayad.
57 Ta sẽ làm cho các vua chúa và những người khôn ngoan say túy lúy, cùng với các thủ lĩnh, quan chức, và binh lính. Chúng sẽ ngủ một giấc dài và không bao giờ tỉnh dậy!” Vua là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán vậy.
Ug hubgon ko ang iyang mga principe ug ang iang mga manggialamong tawo, ang iyang mga gobernador ug ang iyang mga tinugyanan, ug ang iyang mga gamhanang tawo; ug sila mangatulog sa pagkatulog nga walay katapusan, ug dili na mahigmata, nagaingon ang Hari, kansang ngalan mao si Jehova sa mga panon.
58 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: “Các thành lũy rộng thênh thang của Ba-by-lôn sẽ bị san bằng, các cổng đồ sộ cao vút sẽ bị thiêu hủy. Dân chúng kiệt sức mà chẳng được gì, công khó của các dân chỉ dành cho lửa!”
Mao kini ang gipamulong ni Jehova sa mga panon: Ang halapad nga mga kuta sa Babilonia pagalaglagon sa hingpit ug ang iyang mga hatag-as nga pultahan pagasunogon sa kalayo; ug ang mga katawohan managbuhat alang sa kakawangan, ug ang mga nasud alang sa kalayo: ug sila pagakapuyan.
59 Tiên tri Giê-rê-mi gửi sứ điệp này cho một quan đại thần là Sê-ra-gia, con Nê-ri-gia, và cháu Ma-sê-gia, khi Sê-ra-gia đến Ba-by-lôn cùng Vua Sê-đê-kia, nước Giu-đa. Nhằm năm thứ tư triều Sê-đê-kia.
Ang pulong nga gisugo ni Jeremias nga manalagna kang Seraia ang anak nga lalake ni Nerias, ang anak nga lalake ni Maasias, sa diha nga siya miadto uban kang Sedechias ang hari sa Juda ngadto sa Babilonia sa ikaupat ka tuig sa iyang paghari. Karon si Seraia mao ang pangulo sa mga magbalantay sa mga lawak.
60 Giê-rê-mi chép vào cuốn sách những lời tiên tri về sự suy vong của Ba-by-lôn—mọi lời đều được chép vào đây.
Ug gisulat ni Jeremias sa usa ka basahon ang tanang kadautan nga modangat sa Babilonia, bisan pa kining tanan nga mga pulong nga gisulat mahitungod sa Babilonia.
61 Ông nói với Sê-ra-gia: “Khi ông đến Ba-by-lôn, hãy đọc lớn tiếng mọi lời trong cuộn sách này.
Ug si Jeremias miingon kang Seraia: Sa diha nga ikaw moabut na sa Babilonia, nana matngoni nga mabasa mo kining tanan nga mga pulong.
62 Rồi cầu nguyện: ‘Lạy Chúa Hằng Hữu, Ngài đã phán sẽ tiêu diệt Ba-by-lôn đến nỗi không còn một sinh vật nào sống sót. Nó sẽ bị bỏ hoang vĩnh viễn.’
Ug magaingon ka: Oh Jehova, ikaw nagsulti mahitungod niining dapita, sa pagputol kaniya, aron wala nay magapuyo diha kaniya, bisan tawo ni mananap, kondili nga kini mahimo hinoon nga biniyaan sa walay katapusan.
63 Khi đọc xong cuộn sách này, ông hãy buộc sách vào một tảng đá và ném xuống Sông Ơ-phơ-rát.
Ug mahitabo sa diha nga matapus mo pagbasa kining basahona, nga higtan mo ug bato kini, ug isalibay mo sa taliwala sa Eufrates:
64 Rồi nói: ‘Cùng cách này, Ba-by-lôn cũng sẽ chìm như thế, chẳng bao giờ chỗi dậy, vì sự đoán phạt Ta đổ trên nó.’” Lời của Giê-rê-mi đến đây là hết.
Ug magaingon ka: Sa ingon niini ang Babilonia mahiunlod, ug dili na molutaw pag-usab tungod sa kadautan nga pagadad-on ko kaniya; ug sila pagakapuyan. Hangtud dinhi ang mga pulong ni Jeremias.