< Giê-rê-mi-a 50 >

1 Chúa Hằng Hữu ban sứ điệp này cho Tiên tri Giê-rê-mi về Ba-by-lôn và xứ của người Ba-by-lôn.
Ĩno nĩyo ndũmĩrĩri ĩrĩa Jehova aaririe na kanua ka Jeremia ũcio mũnabii, ũhoro ũkoniĩ Babuloni na andũ a bũrũri wa Babuloni:
2 Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: “Hãy loan báo toàn thế giới, đừng giấu giếm gì cả. Hãy dựng cờ báo hiệu để mọi người biết rằng Ba-by-lôn sẽ sụp đổ! Bên bị sỉ nhục, Me-rô-đắc hoảng kinh, thần tượng nó bị sỉ nhục và đập nát.
“Anĩrĩrai na mũhunjanĩrie ũhoro ndũrĩrĩ-inĩ, haandai kĩbebero na mũhunjanĩrie ũhoro wakĩo; mũtikamahithe ũndũ, no mũmeere atĩrĩ, ‘Babuloni nĩgũgũtunyanwo; Beli nĩĩgũconorithio, nayo Merodaki ĩiyũrwo nĩ kĩmako. Mĩhianano yakuo nĩĩgaconorithio, na mĩhianano yao nĩĩkaiyũrwo nĩ guoya.’
3 Vì một nước từ phương bắc sẽ tấn công và làm cho nó hoang tàn, không còn ai ở đó nữa. Mọi thứ sẽ biến mất; cả người và vật đều trốn biệt.”
Tondũ rũrĩrĩ ruumĩte mwena wa gathigathini nĩrũkamũtharĩkĩra, na rwanange bũrũri wake. Gũtirĩ mũndũ ũgaatũũra kuo; andũ nĩmakoora o hamwe na nyamũ.
4 Chúa Hằng Hữu phán: “Trong những ngày cuối cùng, dân tộc Ít-ra-ên sẽ trở về nhà cùng với dân tộc Giu-đa. Họ sẽ cùng khóc lóc và tìm kiếm Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời của họ.
“Matukũ-inĩ macio, na ihinda-inĩ rĩu, andũ a Isiraeli na andũ a Juda hamwe nĩmagathiĩ macarie Jehova Ngai wao makĩrĩraga,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
5 Họ sẽ hỏi đường về Si-ôn và khởi hành quay về quê hương. Họ sẽ buộc mình quay về với Chúa Hằng Hữu trong một giao ước đời đời rằng sẽ không bao giờ quên lãng.
“Nĩmakoorĩrĩria njĩra ya gũthiĩ Zayuni, na magarũrũke, merekeirie mothiũ mao kuo. Nĩmagooka meeohanie na Jehova, na marĩkanĩre kĩrĩkanĩro gĩa gũtũũra tene na tene kĩrĩa gĩtagacooka kũriganĩra.
6 Dân Ta như đàn chiên thất lạc. Người chăn dẫn chúng đi sai lối khiến chúng lang thang trên núi cao. Chúng bị lạc đường, không tìm được lối về nơi an nghỉ.
“Andũ akwa makoretwo marĩ ngʼondu ciũrĩte; arĩithi ao nĩmamahĩtithĩtie njĩra, na magatũma morũũre irĩma igũrũ. Nao morũũrĩte kuuma kĩrĩma-inĩ nginya karĩma-inĩ, makariganĩrwo nĩ kũrĩa ũhurũko wao ũrĩ.
7 Ai gặp chúng cũng ăn nuốt chúng. Rồi lại bảo rằng: ‘Chúng ta chẳng mắc tội gì khi tấn công chúng, vì chúng đã phạm tội nghịch cùng Chúa Hằng Hữu, nơi an nghỉ thật của chúng, và hy vọng của tổ phụ chúng.’
Ũrĩa wothe wamoonire akĩmatambuura; thũ ciao ikiuga atĩrĩ, ‘Ithuĩ tũtirĩ na ihĩtia, nĩ ũndũ nĩmehĩirie Jehova, ũrĩa arĩ we ũrĩithio wao wa ma, o we Jehova, mwĩhoko wa maithe mao.’
8 Nhưng bây giờ, hãy trốn ra khỏi Ba-by-lôn! Hãy rời xứ của người Ba-by-lôn. Như dê đực dẫn đầu bầy mình, hãy dẫn dân Ta trở về nhà.
“Mwĩtharei muume Babuloni; eherai bũrũri wa andũ a Babuloni, na mũtuĩke ta thenge iria itongoragia rũũru rwa mbũri.
9 Vì kìa, Ta dấy binh từ các nước lớn ở phương bắc. Chúng sẽ xuống tấn công và tiêu diệt Ba-by-lôn, và nó sẽ bị chiếm đóng. Cung tên của chúng sẽ luôn trúng mục tiêu; không bao giờ sai trật!
Nĩgũkorwo nĩngarahũra ũiguano wa ndũrĩrĩ nene, ciumĩte bũrũri wa gathigathini ciũkĩrĩre Babuloni. Nĩikarũgama handũ ha cio irĩũkĩrĩre na igũtunyane, kuuma mwena ũcio wa gathigathini. Mĩguĩ yao ĩgaatuĩka ta ĩrĩa ya njamba njoorua, iria itacookaga moko matheri.
10 Canh-đê sẽ bị cướp phá cho đến khi quân xâm lăng no nê của cướp. Ta, Chúa Hằng Hữu, đã phán vậy!”
Nĩ ũndũ ũcio Babuloni nĩgũgatahwo; andũ othe arĩa magaagũtaha nĩmagakuua indo cia kũmaigana,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
11 “Các ngươi vui mừng và hớn hở vì các ngươi đã cướp bóc dân tuyển chọn của Ta. Các ngươi nhảy nhót như bò cái tơ đạp lúa và hí lên như ngựa giống.
“Tondũ nĩmũkenete na mũkarũũhia, inyuĩ arĩa mũtahaga igai rĩakwa, tondũ mũgũtũũha ta moori ĩkĩraanga ngano ĩkĩmĩhũũra, na mũkaania ta mbarathi cia njamba,
12 Mẹ các ngươi sẽ bị chôn vùi trong xấu hổ và nhục nhã. Các ngươi sẽ trở thành quốc gia nhỏ yếu nhất— một hoang mạc, một đồng hoang khô hạn.
nyina wanyu nĩagaconoka mũno; we ũcio wamũciarire nĩagaconorithio. Nĩwe ũgaakorwo arĩ mũnini mũno ndũrĩrĩ-inĩ, atuĩke ta werũ, na ta bũrũri mũngʼaru, o na ta werũ wa mũthanga.
13 Vì cơn thịnh nộ của Chúa Hằng Hữu, Ba-by-lôn sẽ trở nên vùng đất bỏ hoang. Ai đi ngang đó đều sẽ kinh khiếp và sẽ sửng sốt khi thấy sự tàn phá.
Tondũ wa marakara ma Jehova, bũrũri ũcio ndũgacooka gũtũũrwo nĩ andũ, no rĩrĩ, nĩgũkira gũgaakira ihooru biũ. Andũ arĩa othe makaagerera kũu Babuloni nĩmakamaka, na manyũrũrie kũndũ kũu tondũ wa ũrĩa gũgaakorwo kwanangĩtwo.
14 Phải, hãy chuẩn bị tấn cống Ba-by-lôn, hỡi các nước lân bang. Hỡi các xạ thủ, hãy bắn vào nó; đừng tiếc cung tên. Vì nó đã phạm tội nghịch với Chúa Hằng Hữu.
“Mwĩhaarĩrie mũthiũrũrũkĩrie Babuloni, inyuothe arĩa mũgeetaga ũta. Rĩrathei! Mũtigatigie mĩguĩ, nĩgũkorwo nĩrĩĩhĩirie Jehova.
15 Hãy reo hò và thét lên từ mọi phía. Kìa! Nó đầu hàng! Thành lũy nó sụp đổ. Đó là sự báo trả của Chúa Hằng Hữu, hãy báo trả nó xứng đáng, Trả lại nó những tội ác nó đã làm với người khác!
Riugĩrĩriei kuuma na mĩena yothe! Nĩrĩĩneanĩte rĩo rĩene, mĩthiringo yarĩo nĩĩgwĩte, na thingo ciarĩo nĩimomokete. Nĩgũkorwo rĩĩrĩ nĩrĩo irĩhĩria rĩa Jehova-rĩ, mwĩrĩhĩriei harĩ rĩo; rĩĩkei o ta ũrĩa rĩaneeka andũ arĩa angĩ.
16 Hãy lấy khỏi Ba-by-lôn tất cả ai gieo giống; hãy đuổi đi tất cả con gặt. Vì sợ lưỡi gươm của kẻ thù, mà mọi người sẽ bỏ chạy và trốn về quê hương mình.”
Eheriai ũrĩa ũhaandaga kũu Babuloni, na ũrĩa ũgethaga na rũhiũ rwake hĩndĩ ya magetha. Tondũ wa rũhiũ rũu rwa njora rwa mũhinyanĩrĩria-rĩ, o mũndũ nĩacooke kũrĩ andũ ao, o mũndũ nĩorĩre bũrũri wao kĩũmbe.
17 “Ít-ra-ên như đàn chiên bị sư tử đuổi chạy tán loạn. Trước hết, vua A-sy-ri cắn xé chúng. Sau đến Vua Nê-bu-cát-nết-sa, nước Ba-by-lôn, nhai xương chúng.”
“Isiraeli ahaana ta rũũru rũhurunjũkĩte, rũtengʼeretio nĩ mĩrũũthi. Mũthamaki wa Ashuri nĩwe warĩ wa mbere kũmũtambuura; wa kũrigĩrĩria kũmũhehenja mahĩndĩ-rĩ, aarĩ Nebukadinezaru, mũthamaki wa Babuloni.”
18 Vì thế, đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, phán: “Bây giờ, Ta sẽ hình phạt vua Ba-by-lôn và dân tộc nó, như Ta đã hình phạt vua A-sy-ri.
Nĩ ũndũ ũcio, Jehova Mwene-Hinya-Wothe, Ngai wa Isiraeli, ekuuga atĩrĩ: “Nĩngaherithia mũthamaki wa Babuloni na bũrũri wake, o ta ũrĩa ndaaherithirie mũthamaki wa Ashuri.
19 Ta sẽ đem Ít-ra-ên trở về quê hương, cho chúng hưởng hoa lợi các cánh đồng Cát-mên và Ba-san, cho chúng vui thỏa trên núi Ép-ra-im và núi Ga-la-át.”
No nĩngacookia Isiraeli ũrĩithio-inĩ wake mwene, nake akaarĩithagĩria kũu Karimeli na Bashani; akaarĩĩaga akahũũna kũu irima-inĩ cia Efiraimu, na cia Gileadi.
20 Chúa Hằng Hữu phán: “Trong thời kỳ đó, người ta sẽ không tìm thấy tội ác trong Ít-ra-ên hay trong Giu-đa, vì Ta sẽ tha thứ hết cho đoàn dân còn sống sót.”
Matukũ-inĩ macio, o ihinda-inĩ rĩu-rĩ, ihĩtia rĩa Isiraeli nĩrĩgathuthuurio, no rĩtikoneka, o na mehia ma Juda mathuthuurio, no matikooneka, nĩgũkorwo matigari marĩa ngaahonokia nĩngamarekera,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
21 “Hỡi các chiến sĩ, hãy tấn công Mê-ra-tha-im và chống lại người Phê-cốt. Hãy truy nã, giết, và tiêu diệt nó, như Ta đã truyền lệnh,” Chúa Hằng Hữu phán.
“Tharĩkĩrai bũrũri wa Merathaimu, mũũkĩrĩre arĩa matũũraga Pekodi. Matengʼeriei, na mũmoorage, mũmaniine biũ,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga. “Ĩkai ũrĩa wothe ndĩmwathĩte.
22 “Có tiếng reo hò xung phong và tiếng tàn phá vô cùng dữ dội.
Kũrĩ na mbugĩrĩrio ya mbaara bũrũri-inĩ ũcio, nayo nĩ mbugĩrĩrio ya kũniinanwo kũnene!
23 Ba-by-lôn, cây búa đáng sợ nhất thế giới, đã bị gãy tan tành. Ba-by-lôn đã trở thành một nơi đổ nát giữa các nước!
Nyondo ĩrĩa ĩtũũrĩte ĩhũũraga thĩ yothe-rĩ, kaĩ nĩyunangĩtwo, ĩgathethereka-ĩ! Kaĩ Babuloni nĩgũkirĩte ihooru gatagatĩ-inĩ ka ndũrĩrĩ-ĩ!
24 Hỡi Ba-by-lôn, Ta đã xếp đặt cho ngươi bị sập bẫy. Ngươi bị bắt vì ngươi chống lại Chúa Hằng Hữu.
Ndaakwambĩire mũtego, wee Babuloni, nawe ũkĩgwatio nĩguo ũtekũmenya; wakorereirwo, ũkĩnyiitwo tondũ wa gũkararia Jehova.
25 Chúa đã mở kho và phân phát khí giới để đoán phạt quân thù trong cơn thịnh nộ. Khủng bố giáng trên Ba-by-lôn là do bàn tay của Đấng Chí Cao, Chúa Hằng Hữu Vạn Quân.
Jehova nĩahingũrĩte harĩa aigaga indo ciake cia mbaara, akaruta indo icio cia mbaara cia mangʼũrĩ make, nĩgũkorwo Mwathani Jehova Mwene-Hinya-Wothe arĩ na wĩra wa kũruta kũu bũrũri-inĩ wa andũ a Babuloni.
26 Phải, từ các xứ xa xôi, hãy kéo đến tấn công nó. Hãy mở các kho lúa của nó. Nghiền nát các thành lũy và nhà cửa nó thành một đống hoang tàn. Hãy tận diệt nó, đừng chừa lại gì!
Ũkaai mũgũtharĩkĩre muumĩte kũndũ kũraya. Thariai makũmbĩ makuo; gũcookanĩrĩriei irũndo ta cia hĩba cia ngano. Kwanangei biũ, na mũtigatigie matigari kuo.
27 Hãy tiêu diệt cả bầy nghé nó— đó sẽ là điều kinh hãi cho nó! Khốn cho chúng nó! Vì đã đến lúc Ba-by-lôn bị đoán phạt.
Ũragai tũtegwa twakuo tuothe, tũikũrũkiei tũgathĩnjwo! Kaĩ marĩ na haaro-ĩ! Nĩgũkorwo mũthenya watuo nĩmũkinyu, ihinda rĩatuo rĩa kũherithio.
28 Hãy nghe những người trốn thoát từ Ba-by-lôn, họ sẽ thuật lại trong Giê-ru-sa-lem rằng Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời chúng ta đã báo trả trên bọn người đã phá Đền Thờ của Ngài.
Ta thikĩrĩriai mũigue arĩa moorĩte na arĩa metharĩte makoima bũrũri wa Babuloni, makiumbũra marĩ kũu Zayuni ũrĩa Jehova Ngai witũ erĩhĩirie, akerĩhĩria nĩ ũndũ wa hekarũ yake.
29 Hãy tập họp các xạ thủ đến Ba-by-lôn. Bao vây thành, không để ai chạy thoát. Hãy báo lại nó những việc ác nó làm cho các nước, vì nó đã kiêu căng thách thức Chúa Hằng Hữu, là Đấng Thánh của Ít-ra-ên.
“Ĩtai aikia a mĩguĩ mokĩrĩre Babuloni, o arĩa othe mageetaga ũta. Ambaai hema mũgũthiũrũrũkĩirie; mũtikareke mũndũ o na ũmwe warĩo oore. Rĩrĩhei kũringana na ciĩko ciarĩo; o ta ũrĩa rĩaneeka andũ angĩ-rĩ, rĩĩkei o ta guo. Nĩgũkorwo nĩrĩngʼathĩirie Jehova, o we Ũrĩa Mũtheru wa Isiraeli.
30 Các trai tráng của nó sẽ ngã chết trong các đường phố. Các chiến sĩ nó sẽ bị tàn sát,” Chúa Hằng Hữu phán.
Nĩ ũndũ ũcio, aanake aarĩo nĩmakaagũa njĩra-inĩ cia itũũra; thigari ciarĩo ciothe nĩigakirio ki mũthenya ũcio,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
31 “Này, Ta chống lại ngươi, hỡi dân tộc kiêu căng,” Chúa, là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán. “Ngày đoán phạt ngươi đã đến— là ngày Ta sẽ hình phạt ngươi.
“Atĩrĩrĩ, nĩngũũkĩrĩire, wee mwĩtĩĩi ũyũ, nĩgũkorwo mũthenya waku nĩmũkinyu, o rĩo ihinda rĩaku rĩa kũherithio,” ũguo nĩguo Mwathani, o we Jehova-Mwene-Hinya-Wothe, ekuuga.
32 Hỡi xứ kiêu ngạo, ngươi sẽ vấp té và ngã quỵ, không ai đỡ ngươi đứng lên. Vì Ta sẽ nhóm lửa trong các thành Ba-by-lôn và thiêu rụi mọi vật chung quanh nó.”
“Mwĩtĩĩi ũcio nĩakahĩngwo agwe, na gũtirĩ mũndũ ũkaamũũkĩria; nĩngagwatia matũũra makuo mwaki, naguo nĩũgaacina arĩa othe mamũrigiicĩirie, maniinwo biũ.”
33 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: “Dân tộc Ít-ra-ên và dân tộc Giu-đa đã bị áp bức. Những kẻ bắt chúng cứ giữ chặt, không chịu thả chúng ra.
Jehova Mwene-Hinya-Wothe ekuuga atĩrĩ, “Andũ a Isiraeli nĩmahinyĩrĩirio, o ũndũ ũmwe na andũ a Juda. Arĩa othe maamatahire nĩmamarũmĩtie mũno, makarega kũmarekia mathiĩ.
34 Nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng thật là mạnh mẽ. Danh Ngài là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân. Ngài sẽ bênh vực chúng, cho chúng được nghỉ ngơi trong Ít-ra-ên. Nhưng người Ba-by-lôn sẽ không được yên nghỉ!
No rĩrĩ, Mũkũũri wao arĩ na hinya; Jehova Mwene-Hinya-Wothe nĩrĩo rĩĩtwa rĩake. Nĩakamarũĩrĩra na kĩyo ciira-inĩ wao, nĩguo atũme bũrũri wao ũgĩe na ũhurũko, no aagithie arĩa matũũraga Babuloni ũhurũko.”
35 Lưỡi kiếm hủy diệt sẽ đâm chém người Ba-by-lôn,” Chúa Hằng Hữu phán vậy. “Nó sẽ triệt hạ người Ba-by-lôn, các quan chức và người khôn ngoan cũng vậy.
Jehova ekuuga atĩrĩ: “Harĩ na rũhiũ rwa njora rwa gũũkĩrĩra andũ a Babuloni, rũũkĩrĩre arĩa matũũraga Babuloni, na rũũkĩrĩre anene na andũ arĩa ogĩ akuo!
36 Gươm sẽ diệt người mưu trí của nó và chúng sẽ trở nên khờ dại. Gươm sẽ giáng trên các chiến sĩ can trường nhất khiến chúng phải kinh hoàng.
Rũhiũ rwa njora rũgookĩrĩra anabii akuo a maheeni, nao matuĩke irimũ. Ningĩ rũhiũ rwa njora nĩrũgookĩrĩra njamba ciakuo iria irĩ hinya, nacio nĩikaiyũrwo nĩ kĩmako kĩnene.
37 Gươm sẽ đánh tan các đoàn kỵ mã, chiến xa, và quân đồng minh từ xứ xa xôi, tất cả chúng sẽ thành đàn bà. Gươm sẽ tàn phá các kho châu báu và chúng sẽ bị cướp sạch.
Rũhiũ rwa njora rũgookĩrĩra mbarathi, na ngaari cia ita, na andũ a ndũrĩrĩ arĩa marĩ ita-inĩ rĩake, nao matuĩke ta andũ-a-nja. Ningĩ rũhiũ rwa njora nĩrũgookĩrĩra indo ciao iria cia bata ciigĩtwo igĩĩna-inĩ ciao, nacio nĩigatahwo.
38 Gươm cũng sẽ diệt nguồn nước uống của nó, gây ra khô hạn khắp nơi. Tại sao? Vì cả xứ đều đầy dẫy thần tượng, và dân chúng mê dại vì thần tượng.
Nĩgũkaara riũa rĩa kũhũithia maaĩ makuo! Namo nĩmakaahũa biũ. Nĩgũkorwo ũcio nĩ bũrũri ũiyũrĩte ngai cia mĩhianano, nao andũ akuo nĩmagũrũkĩtio nĩyo.
39 Vì thế, Ba-by-lôn sẽ sớm biến thành chỗ ở cho thú hoang và linh cẩu. Nó sẽ thành nhà cho đà điểu. Không bao giờ có người sống tại đó nữa; nó sẽ bị bỏ hoang vĩnh viễn.
“Nĩ ũndũ ũcio nyamũ cia werũ-inĩ na hiti nĩcio igaatũũraga Babuloni, na kũu no kuo gũgaatũũrwo nĩ ndundu. Gũtigacooka gũtũũrwo nĩ andũ o na kana gũikarwo nĩ andũ, nginya njiarwa na njiarwa.
40 Ta sẽ tiêu diệt Ba-by-lôn như Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các vùng phụ cận,” Chúa Hằng Hữu phán. “Không ai còn sinh sống trong đó, không ai đến đó cư ngụ nữa.
O ta ũrĩa Ngai aangʼaũranirie Sodomu, na Gomora, o hamwe na matũũra marĩa maariganĩtie namo-rĩ, ũguo noguo gũtarĩ mũndũ ũgaatũũra kuo; gũtirĩ mũndũ ũgaikara kuo,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
41 Kìa! Quân đông đảo từ phương bắc kéo xuống. Dưới quyền lãnh đạo của nhiều vua xuất hiện từ tận cùng trái đất.
“Atĩrĩrĩ, mbũtũ ya ita nĩ ĩrooka yumĩte mwena wa gathigathini; rũrĩrĩ rũnene, na athamaki aingĩ nĩmarahũrĩtwo kuuma ituri-inĩ cia thĩ.
42 Tất cả đều trang bị đầy đủ cung và giáo. Chúng dữ tợn, không thương xót. Chúng cỡi ngựa tiến đến, chúng la như sóng biển thét gào. Chúng đến trong chuẩn bị, sẵn sàng tiêu diệt ngươi, hỡi Ba-by-lôn.
Marooka marĩ na mota na matimũ mao; nao nĩ andũ ooru, na matarĩ tha. Mũrurumo wao nĩ ta mũrurumo wa ndiihũ cia maaĩ ma iria, magĩũka mahaicĩte mbarathi ciao; mokĩte meyarĩire wega mbaara-inĩ nĩguo magũtharĩkĩre, wee Mwarĩ ũyũ wa Babuloni.
43 Nghe tin báo về quân thù, vua Ba-by-lôn kinh hoàng, khiếp đảm. Nỗi đau đớn siết chặt vua, như đàn bà quặn thắt lúc lâm bồn.
Mũthamaki wa Babuloni nĩaiguĩte ũhoro wao, namo moko make makoorwo nĩ hinya. Nĩanyiitĩtwo nĩ ruo rũnene ngoro-inĩ yake, na ruo ta rwa mũndũ-wa-nja akĩrũmwo.
44 Ta sẽ đến như sư tử trong rừng rậm Giô-đan, nhảy sổ vào đàn chiên đang ăn cỏ. Ta sẽ đuổi Ba-by-lôn ra khỏi xứ, và Ta sẽ đặt người Ta chọn cai trị chúng. Vì ai giống như Ta, và ai có thể thách thức Ta? Người cai trị nào dám trái ý Ta?”
O ta mũrũũthi ũũkĩte kuuma ihinga-inĩ cia Jorodani ũgakinya ũrĩithio-inĩ ũrĩa mũnoru-rĩ, ũguo noguo ngaingata Babuloni, oime bũrũri-inĩ wake o rĩmwe. Nũũ ũcio ũthuurĩtwo wĩra ũcio nĩgeetha ndĩmũtue wa kũũrũgamĩrĩra? Nũũ ũngĩ ũhaana ta niĩ, ningĩ-rĩ, nũũ ũngĩhota kũngararia? Ningĩ nĩ mũrĩithi ũrĩkũ ũngĩhota kũregana na niĩ?”
45 Hãy nghe kế hoạch Chúa ấn định để tiêu diệt Ba-by-lôn và xứ của người Ba-by-lôn. Cả đến trẻ nhỏ cũng sẽ bị kéo đi như chiên, và nhà của chúng sẽ bị tàn diệt.
Nĩ ũndũ ũcio, thikĩrĩriai mũigue ũndũ ũrĩa Jehova athugundĩte wa gũũkĩrĩra bũrũri wa Babuloni, o na ũrĩa atuĩte gwĩka bũrũri wa andũ a Babuloni: Arĩa anini rũũru-inĩ magaakururio, matwarwo kũndũ kũraya; nĩakananga ũrĩithio wao ũthire biũ nĩ ũndũ wao.
46 Cả mặt đất sẽ rúng động kêu là: “Ba-by-lôn sụp đổ!” Tiếng thét hãi hùng tuyệt vọng vang động khắp thế giới.
Mũrurumo wa Babuloni gũgĩtahwo nĩũgathingithia thĩ; kayũ ga kĩrĩro gĩakuo nĩgakaiguuo ndũrĩrĩ-inĩ.

< Giê-rê-mi-a 50 >