< I-sai-a 59 >

1 Này! Tay Chúa Hằng Hữu không phải yếu đuối mà không cứu được, hay tai Ngài điếc mà không nghe được lời cầu nguyện.
Kitaenyo! Dakayo nga Israelita, saan a naababa ti ima ni Yahweh tapno saan a makaisalakan; wenno saan a tuleng ti lapayagna tapno saan a makangngeg.
2 Nhưng tội lỗi ngươi đã phân cách ngươi khỏi Đức Chúa Trời. Vì gian ác ngươi, Ngài đã quay mặt khỏi ngươi và sẽ không nghe tiếng ngươi nữa.
Nupay kasta, ti kinamanagbasolyo nga Israelita ket isu ti nangisina kadakayo manipud iti Diosyo, ken gapu kadagiti basolyo ket tinallikudannakayo ken saannakayo a dinengngeg.
3 Bàn tay ngươi là tay của kẻ giết người, và ngón tay ngươi dính đầy tội ác. Môi ngươi đầy lời dối trá và miệng ngươi thốt ra điều thối nát.
Ta dagiti imayo ket namantsaan iti dara kasta met dagiti ramayyo ket namantsaan iti basol. Agsasao dagiti bibigyo iti inuulbod ken agkakadakes ti ibalbalikas ti dilayo.
4 Không còn ai quan tâm về công lý và sự chân thật. Tất cả đều tin vào việc hư không, lời dối trá. Chúng cưu mang điều ác, và đẻ ra tội trọng.
Awan iti agar-aramid iti nalinteg, ken awan iti mangikalkalintegan iti kasasaadna iti kinapudno. Agtaltalekda iti ubbaw a sasao, ken inuulbod ti ibagbagada; isikogda ti riribuk ket impasngayda ti basol.
5 Chúng nó ấp trứng rắn, dệt màng nhện. Ai ăn phải trứng đó đều thiệt mạng, trứng nào dập nát lại nở ra rắn con.
Pagpissaenda dagiti itlog ti nagita nga uleg ken lagaenda ti sapot ti lawwalawwa. Siasinoman a mangan kadagiti itlogda ket matay, ken no adda mabittak nga itlog, rummuar ti nagita nga uleg.
6 Màng dệt chúng không thể làm trang phục, và không thể mặc thứ gì chúng làm ra. Tất cả việc làm của chúng đều đầy ắp tội ác, đôi tay chúng đầy những việc bạo tàn.
Saan a mabalin nga aramiden a lupot dagiti sapotda, ken saanda a mabalin a lengdan dagiti bagbagida kadagiti trabahoda. Dagiti trabahoda ket trabaho ti kinadakes, ken aramid ti kinaranggas ti adda kadagiti imada.
7 Chúng nhanh chân chạy vào đường tội ác, vội vã làm đổ máu vô tội. Chúng cứ nghĩ chuyện gian tà. Khốn khổ và hủy diệt luôn luôn theo chúng.
Tartarayenda ti kinadakes, ket agtarayda tapno mangpasayasayda iti dara iti awan basolna. Dagiti kapanunotanda ket dakes a kapanunotan; kinaranggas ken pannakadadael ti pagpagnaanda a kalsada.
8 Chúng không biết tìm bình an nơi đâu hay ý nghĩa của chính trực và thiện lành là gì. Chúng mở những con đường cong quẹo riêng cho mình, ai đi trên các đường ấy chẳng bao giờ được bình an.
Saanda nga ammo ti dalan ti kappia, ken awan iti hustisia kadagiti dalanda. Nagaramidda kadagiti killo a dalan; siasinoman nga agdaliasat kadagitoy a dalan ket saanna nga ammo ti kappia.
9 Vì thế, không có công lý giữa chúng ta và chúng ta không biết gì về đời sống công chính. Chúng ta đợi ánh sáng nhưng chỉ thấy bóng tối. Chúng ta mong cảnh tươi sáng nhưng chỉ bước đi trong tối tăm.
Isu nga adayo kadakami ti hustisia, uray ti kinalinteg ket saan a dimmanon kadakami. Agur-uraykami iti lawag, ngem kinasipnget ti makitami; sapsapulenmi ti kinaraniag, ngem magmagnakami iti kasipngetan.
10 Chúng ta sờ soạng như người mù mò theo tường, cảm nhận đường đi của mình như người không mắt. Dù giữa trưa chói sáng, chúng ta vấp ngã như đi trong đem tối. Giữa những người sống mà chúng ta như người chết.
Ar-arikapenmi ti pader a kas iti bulsek, kas kadagiti saan a makakita. Maitubtublakkami iti tengnga ti aldaw nga arigna't sumipngeten; kadagiti napipigsa, kasla kami la natay a tattao.
11 Chúng ta gầm gừ như gấu đói; chúng ta rên rỉ như bồ câu than khóc. Chúng ta trông đợi công lý, nhưng không bao giờ đến. Chúng ta mong sự cứu rỗi, nhưng nó ở quá xa.
Agngerngerngerkami a kas kadagiti oso ken umas-asugkami a kas kadagiti kalapati; agur-uraykami para iti hustisia, ngem awan; agur-uraykami iti mangispal, ngem adayo daytoy kadakami.
12 Vì tội lỗi của chúng ta phạm quá nhiều trước mặt Đức Chúa Trời và tội lỗi chúng ta làm chứng nghịch chúng ta. Phải, chúng ta nhìn nhận tội ác mình.
Ta dagiti adu a nagbasolanmi ket adda iti sangoanam, ken mangpaneknek dagiti basolmi maibusor kadakami; ta nagbasolkami, ket bigbigenmi dagiti basbasolmi.
13 Chúng ta biết mình đã phản nghịch và khước từ Chúa Hằng Hữu. Chúng ta đã lìa bỏ Đức Chúa Trời chúng ta. Chúng ta biết mình bất công và áp bức người khác thể nào, tâm trí chúng ta nghĩ và nói những lời dối gạt.
Nagsukirkami, inliblibakmi ni Yahweh ken immadayokami iti panangsurot iti Diosmi. Nangidadaneskami iti panagsaomi ket pasig nga ulbod ti adda iti pusomi ket inuulbod dagiti sasaomi.
14 Tòa án của chúng ta đẩy lui công chính, và công bằng chẳng thấy nơi đâu. Chân lý vấp ngã trên đường phố, và sự ngay thẳng phải đứng ngoài vòng luật pháp.
Nabaliktad ti hustisia, ket adayo ti ayan iti kinalinteg; ta naitublak ti kinapudno iti paguummongan a disso, ket saan a makagteng ti husto.
15 Phải, chân lý không còn nữa, và bất cứ ai lìa bỏ việc ác sẽ bị tấn công. Chúa Hằng Hữu đã thấy và Ngài buồn lòng vì xã hội đầy dẫy bất công.
Napukawen ti kinamatalek, ken ti tao a nagsardengen nga agar-aramid iti dakes ket pinagbalinna a biktima ti bagina. Nakita ni Yahweh daytoy ket saan isuna a naragsakan nga awan iti hustisia.
16 Chúa ngạc nhiên khi thấy không ai dám đứng ra để giúp người bị áp bức. Vì vậy, Chúa dùng cánh tay mạnh mẽ để cứu giúp, và tỏ ra sức công chính của Ngài.
Nakita ni Yahweh nga awan ti uray maysa a tao a timmulong ket nasdaaw isuna. Ngarud, isuna a mismo ti nangisalakan kenkuana, ket pinagballigi isuna iti kinalintegna.
17 Chúa khoác lên mình áo giáp công chính, và đội lên đầu mão cứu rỗi. Chúa mặc cho mình áo dài của sự báo thù và choàng lên người áo của lòng sốt sắng.
Insuotna ti kinalinteg a kas kabal ken inkabilna iti ulona ti helmet ti pannakaisalakan. Kinawesanna ti bagina kadagiti pagan-anay iti panagibales ken insuotna ti tatak a kas iti maysa a nagayad a lupot.
18 Chúa sẽ báo trả mỗi người tùy theo việc chúng làm. Cơn thịnh nộ của Chúa sẽ đổ trên những người chống đối. Chúa sẽ báo trả tất cả dù chúng ở tận cùng trái đất
Sinupapakanna ida segun iti inaramidda, naunget a panangikeddeng kadagiti kabusorna, panangibales kadagiti kabusorna, ti pannakadusa kadagiti isla a kas gunggonada.
19 Từ phương tây, người ta sẽ kính sợ Danh Chúa Hằng Hữu; từ phương đông, họ sẽ tôn vinh Ngài. Vì Ngài sẽ đến như dòng sông chảy xiết, và hơi thở của Chúa Hằng Hữu đẩy mạnh thêm.
Isu nga agbutengdanto iti nagan ni Yahweh manipud iti laud, ken iti dayagna manipud iti pagsingsingisingan ti init; ta umayto isuna a kasla iti napegges a waig, nga iturturong ti anges ni Yahweh.
20 “Đấng Cứu Chuộc sẽ đến Si-ôn để giải cứu những người thuộc về Gia-cốp là những ai lìa bỏ tội ác,” Chúa Hằng Hữu phán vậy.
“Umayto ti mannubbot idiay Sion ken umayto isuna para kadagiti kaputotan ni Jacob a nangtallikud kadagiti kinasukirda — kastoy ti pakaammo ni Yahweh.
21 Chúa Hằng Hữu phán: “Đây là giao ước Ta lập với họ, Thần Ta đang ở trên các con, lời Ta đã đặt vào lưỡi các con sẽ mãi mãi tồn tại trên môi miệng các con và môi miệng con cháu, chắt chít của các con, từ bây giờ cho đến đời đời. Ta, Chúa Hằng Hữu, đã phán!”
Ket para kaniak, daytoy ti katulagak kadakuada — kuna ni Yahweh — ti espirituk nga adda kadakayo, ken dagiti sasaok nga inkabilko kadagiti ngiwatyo, ket saanto a maikkat kadagiti ngiwatyo wenno rummuar manipud kadagiti ngiwat dagiti annakyo, wenno rummuar manipud kadagiti ngiwat ti appokoyo manipud ita ken iti agnanayon, kuna ni Yahweh.”

< I-sai-a 59 >