< Hê-bơ-rơ 4 >
1 Trong thời hạn Đức Chúa Trời dành cho con người vào nơi an nghỉ, chúng ta phải lo sợ giữ mình để khỏi một ai bị loại trừ.
Henu twilondeka kujha makini ili kwamba kati jha muenga asijhi hata mmonga j'haibetakubhonekana kusindwa kufikila ahadi endelevu jha kujhingila mu lip'om'os'eku lya K'yara.
2 Vì Phúc Âm được truyền giảng cho chúng ta cũng như cho người thời Môi-se, nhưng họ không được cứu, vì nghe mà không tin nhận.
Kwani tuj'hele ni habari jhinofu kuhusu p'omos'eku lya K'yara lyalyatangasibhu kwa tete kama Bhaisraeli kyabhaj'he nakhu, lakini ujumbe obhu ghwabhatangatili lepi bhala ambabho bhaup'eliki bila kuunganisya imani kwa e'lu.
3 Còn chúng ta đã tin nhận Chúa, nên được vào nơi an nghỉ của Ngài. Đức Chúa Trời phán: “Trong cơn thịnh nộ, Ta đã thề: ‘Họ chẳng bao giờ được vào nơi an nghỉ Ta.’” Dù Ngài đã hoàn tất mọi việc và chờ đợi họ từ khi sáng tạo vũ trụ.
Kwa tete, ambabho tukyeriri-tete ndo miongoni bha bhabhibetakujhingila mu lela lip'omoseku, kama kyajhijobha, “Kama kyanilapili kwa ligoga lya nene, Bhibetalepi kujhingila mu lip'omos'eku lya nene.” Ajobhili e'le, ingabhwa mbombo syoha syaasitengenisi syajhele simalili kukamilika kuhomela kubhwandelu bhwa ulimwengu.
4 Thật vậy, Thánh Kinh chép: “Sau khi hoàn tất mọi việc, Đức Chúa Trời an nghỉ vào ngày thứ bảy.”
Kwani amalili kujobha sehemu fulani kuhusu ligono lya saba, “K'yara ap'omos'iki ligono lya saba mu ghoha ghaabhombili.”
5 Nhưng họ không được an nghỉ vì Đức Chúa Trời tuyên bố: “Họ chẳng bao giờ được vào nơi an nghỉ Ta.”
Kabhele amali kujobha, “Bhibetalepi kujhingila mu lip'omos'eku kya nene.”
6 Tuy nhiên, lời hứa của Đức Chúa Trời vẫn còn hiệu lực, nên một số người được vào nơi an nghỉ. Còn những người trước kia đã nghe Phúc Âm nhưng không tin nhận, đều không được vào.
Kwandabha ejhu, kuhomela lip'o'mos'eku lya K'yara lyakona ni akiba kwandabha jha baadhi kujhingila kwandabha jha kutokutii,
7 Do đó Đức Chúa Trời lại định một thời hạn khác gọi là “ngày nay” là thời hiện tại. Sau khi loài người thất bại một thời gian dài, Chúa dùng Đa-vít nhắc lại lời hứa trước kia: “Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, đừng ngoan cố, cứng lòng.”
K'yara abhekili kabhele ligono fulani jhajhikutibhwa, “Lelu.” Muene ajhongisi ligono e'le pa alongili kup'etela Daudi, ambajhe aj'hobhili kwa muda bhutari baada jha ghajobhibhu kubhwandelu, “Lelu kama mwibetakup'eleka sauti jha muene, musibhombi mioyo ghya muenga kujha minonono.”
8 Nếu Giô-suê thật sự đưa họ vào nơi an nghỉ, tất nhiên Đức Chúa Trời chẳng cần ấn định thêm một thời hạn nữa.
Kwani kama Yoshua abhapelili lip'omoseku, K'yara ngaalijobhililepi panani pa ligono l'enge.
9 Vậy, vẫn còn ngày an nghỉ cho dân Chúa.
Henu kwakona kujha Sabato jha lip'om'os'eku jhajhitunzibhu kwandabha jha bhanu bha K'yara.
10 Người nào vào nơi an nghỉ của Chúa cũng thôi làm việc riêng, như Chúa đã nghỉ công việc của Ngài.
Kwani jhaijhingila mu lip'omoseku lya K'yara muene kabhele ap'om'osiki kutokana ni matendo gha muene, kama K'yara kya abhombili kwa ndabha jha muene.
11 Vậy chúng ta hãy cố gắng vào nơi an nghỉ đó, để không một ai bị loại trừ vì theo gương những người ngoan cố không tin.
Henu tujhelayi ni shauku jha kujhingila mu lip'om'oseku lela, ili kwamba asijhi jhaibetakubina mu aina jha uasi bhwa bhabhombili.
12 Lời Đức Chúa Trời sống động và đầy năng lực, sắc hơn gươm hai lưỡi, mổ xẻ hồn linh, xương tủy, phân tích tư tưởng, và ước vọng trong lòng.
Kwa ndabha lilobhi lya K'yara likeka na lijhele ni nghofu na lijhele ni ukali kuliko bhupanga bhwobhuoha bhwabhunolibhu kubhele. Na wihoma haat kufikila kugabhwanyika kutenganisya nafsi ni roho, ni fiungo mu bhuboho. Na libhwesya kumanya fikra sya muoyo nia jhiake.
13 Chẳng có vật gì che giấu được mắt Chúa, nhưng tất cả đều lột trần, phơi bày trước mặt Ngài vì ta phải tường trình mọi việc cho Ngài.
Kijhelepi kyakibhombiki kyakifighili pa mihu pa K'yara. Badala jhiake, khila khenu ndo dhahiri ni bhuasi kwa mihu gha mmonga ambajhe ndo lazima tupisiajhi hesabu.
14 Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời, là Thầy Thượng Tế đã từ trời giáng thế và trở về trời để cứu giúp chúng ta, nên chúng ta hãy giữ vững niềm tin nơi Ngài.
Baadajhe kujha ni kuhani mbaha jhaajhingili mu mbingu, Yesu Mwana ghwa K'yara, kwa bhuimara tukamulilayi imani sya j'holu.
15 Thầy Thượng Tế ấy cảm thông tất cả những yếu đuối của chúng ta, vì Ngài từng trải qua mọi cám dỗ như chúng ta, nhưng không bao giờ phạm tội.
Kwa kujha tujhelepi ni kuhani mbaha ambajhe libhuesya lepi kuhisi ke'sa kwa ndabha jha bhudhaifu bhwa jhotu, lakini muene ambajhe kwa njela syoha ajhele ijaribibhwa kama tete, isipokujha muene ambajhe ajhelepi ni dhambi.
16 Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngai Đức Chúa Trời để nhận lãnh tình thương và ơn phước giúp ta khi cần thiết.
Na tuhidayi bila bhuogha mu kiti kya enzi kya neema, ili kwamba tujhambelelayi rehema ni kukabha neema jha kutusaidila wakati bhwa kalondekelu.