< Ê-xê-ki-ên 16 >
1 Chúa Hằng Hữu truyền sứ điệp cho tôi:
I puta mai ano te kupu a Ihowa ki ahau, i mea,
2 “Hỡi con người, hãy đương đầu với Giê-ru-sa-lem cùng những việc ghê tởm của nó.
E te tama a te tangata, meinga a Hiruharama kia mohio ki ana mea whakarihariha,
3 Con hãy nói với nó sứ điệp của Chúa Hằng Hữu Chí Cao: Ngươi sinh trưởng trong đất Ca-na-an! Cha ngươi là người A-mô-rít và mẹ ngươi là người Hê-tít.
Mea atu, Ko te kupu tenei a te Ariki, a Ihowa, ki Hiruharama: Ko tou take, ko tou wahi i whanau ai koe, ko te whenua o te Kanaani: ko te Amori tou papa, a ko tou whaea he Hiti.
4 Ngày ngươi được sinh ra, chẳng ai thèm đoái hoài. Ngươi lọt lòng mẹ, không được cắt rốn, không được tắm rửa sạch sẽ, không được xát muối, cũng không có một tấm khăn bọc mình.
Na, ko tou whanautanga, i te ra i whanau ai koe, kihai tou uho i tapahia, kihai ano koe i horoia ki te wai kia ma ai; kihai rawa ano koe i meatia ki te tote, kihai rawa i takaia.
5 Không có ai lưu tâm đến ngươi; không có ai thương xót hay chăm sóc ngươi. Ngày ngươi được sinh ra, mọi người đều ghê tởm, bỏ ngươi trong đồng hoang để ngươi chết.
Kihai tetahi kanohi i aroha ki a koe, kihai i meatia ki a koe tetahi o enei mea, he mahi tohu ki a koe; heoi he mea maka atu koe ki te mata o te parae, he mea whakarihariha hoki tou tinana i te ra i whanau ai koe.
6 Nhưng Ta đi qua và thấy ngươi tại đó, đang cựa quậy trong chính máu mình. Khi ngươi nằm đó, Ta phán: ‘Hãy sống!’
Na, i toku haerenga atu ma tou taha, a ka kite ahau i a koe e oke ana i roto i ou toto, ka mea atu ahau ki a koe, Ahakoa kei roto koe i ou toto, e ora; ae ra, i mea atu ahau ki a koe, Ahakoa kei roto koe i ou toto, e ora.
7 Và Ta đã giúp ngươi thịnh vượng như cây mọc ngoài đồng. Ngươi lớn lên trở nên xinh đẹp. Ngực ngươi nảy nở, tóc ngươi dài ra, nhưng ngươi vẫn trần truồng.
I meinga ano koe e ahau kia tini, kia rite ki nga tupu o te mara; heoi kua tokomaha koe, kua nui, kua tae ano koe ki nga whakapaipai ataahua; kua pupuku ou u kua tupu ou makawe; i mua hoki e noho tahanga ana koe, kahore he kakahu.
8 Khi Ta đi qua một lần nữa, Ta thấy ngươi đã đến tuổi yêu đương. Vậy, Ta lấy áo Ta khoác cho ngươi để che sự trần truồng của ngươi và Ta đã công bố lời thề kết ước của Ta. Ta đã kết giao ước với ngươi, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán, và ngươi thuộc về Ta.
Na, i toku haerenga atu i tou taha, ka kite ahau i a koe, na he wa no te aroha te wa i a koe; na hipokina iho e ahau te remu o toku ki runga ki a koe, uhia ana koe e ahau, i a koe e noho tahanga ana; ae ra, oati ana ahau ki a koe, uru ana taua ki te kawenata, e ai ta te Ariki, ta Ihowa, a riro mai ana koe i ahau.
9 Ta tắm ngươi sạch sẽ, rửa sạch máu, và xức dầu cho da ngươi.
Katahi ka horoia koe e ahau ki te wai; ae ra, ata horoia atu ana e ahau ou toto i a koe; a pania ana koe e ahau ki te hinu.
10 Ta ban cho ngươi áo lụa, áo gấm thêu đẹp đẽ, và giày làm bằng da dê.
Ko taku kakahu mou he mea whakairo; ko aku hu mou he hiako kekeno; ko taku whitiki mou he rinena pai; hipokina ana koe e ahau ki te hiraka.
11 Ta đeo cho ngươi đủ thứ đồ trang sức, vòng ngọc, kiềng vàng,
He mea whakapaipai ano koe naku ki te whakapaipai, whakanohoia ana e ahau he poroporo ki ou ringa, he hei ki tou kaki.
12 khoen đeo mũi, bông tai, và đội mão miện tuyệt đẹp trên đầu ngươi.
I kuhua ano e ahau he mowhiti ki tou ihu, he whakakai ki ou taringa, he karauna ataahua ki tou mahunga.
13 Ngươi được trang sức bằng vàng và bạc. Quần áo ngươi bằng vải lụa được thêu thùa đẹp đẽ. Ngươi ăn toàn những thứ cao lương mỹ vị—bột chọn lọc, mật ong, và dầu ô-liu—và trở nên xinh đẹp bội phần. Trông ngươi như một hoàng hậu, và ngươi đã chiếm được ngôi hoàng hậu!
Heoi kua oti koe te whakapaipai ki te koura, ki te hiriwa; he rinena pai ano hoki tou kakahu, he hiraka, he mea whakairo hoki; i kai koe i te paraoa pai, i te honi, i te hinu; nui atu tou ataahua, kake ana koe hei kingitanga.
14 Ngươi nổi danh khắp các nước vì sắc đẹp. Ta chải chuốt cho ngươi thật lộng lẫy và sắc đẹp ngươi thật hoàn hảo, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán vậy.
Paku ana tou ingoa ki nga iwi, he ataahua nou; i tino pai rawa hoki, he honore hoki noku i tukua atu e ahau ki a koe, e ai ta te Ariki, ta Ihowa.
15 Tuy nhiên, ngươi nghĩ danh tiếng và sắc đẹp là của riêng ngươi. Vì vậy, ngươi buông mình thông dâm với tất cả khách qua đường. Ngươi bán sắc đẹp mình cho chúng.
Otiia whakawhirinaki ana koe ki tou ataahua, kairau ana koe, he whakaaro hoki nou ki tou ingoa, ringihia ana e koe ou kairautanga ki te tangata e haere atu ana i tou taha; i a ia tena.
16 Ngươi lấy các bảo vật Ta cho làm bàn thờ thần tượng đủ màu sắc sặc sỡ và trang hoàng giường ngủ để bán dâm. Thật không thể tưởng tượng! Làm sao những việc ô nhơ như vậy xảy ra được?
I tikina atu ano e koe etahi o ou kakahu, a mahia ana e koe au wahi tiketike, kotingotingo rawa, hei kairautanga mou: e kore he pena e puta a mua, e kore ano e pena.
17 Ngươi lấy đồ trang sức và vật trang hoàng bằng vàng và bạc Ta cho để làm tượng đàn ông rồi hành dâm với chúng.
I tikina ano e koe au mea whakapaipai, he koura naku, he hiriwa naku, ko aku i hoatu ra ki a koe, a hanga ana e koe etahi whakapakoko tane mau, hei kairautanga mou.
18 Ngươi lấy áo thêu đẹp đẽ Ta cho mà khoác cho thần tượng của ngươi. Ngươi dùng dầu đặc biệt và trầm hương của Ta để thờ lạy chúng.
I tikina ano e koe ou kakahu whakairo, hei hipoki mo ratou, hoatu ana e koe taku hinu, me taku whakakakara ki to ratou aroaro.
19 Thật khó tưởng! Ngươi còn đặt trước chúng như của lễ vật cúng gồm bột mịn, dầu ô-liu, và mật ong mà Ta đã cho ngươi, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán vậy.
Ko taku kai hoki, i hoatu e ahau ki a koe, ko te paraoa pai, ko te hinu, ko te honi i whangaia ai koe e ahau, hoatu ana ano tera e koe ki to ratou aroaro hei kakara reka, a koia ano tera; e ai ta te Ariki, ta Ihowa.
20 Rồi ngươi dâng các con trai và con gái—là những đứa trẻ ngươi đã sinh cho Ta—làm sinh tế cho các thần của ngươi. Tính dâm loạn của ngươi vẫn chưa đủ sao?
I tikina ano e koe au tama me au tamahine, a taua whanau, patua iho e koe hei kai ma ratou. He iti ianei ou kairautanga,
21 Lẽ nào ngươi còn phải giết các con Ta và thiêu trong lửa để dâng cho thần tượng?
I patua ai e koe aku tamariki, i tukua atu ai ratou, i meatia ratou kia haere na roto i te ahi ki a ratou?
22 Trong những năm ngươi phạm tội dâm ô ghê tởm, ngươi chưa từng một lần nhớ đến những ngày xa xưa khi ngươi nằm trần truồng trong đồng, cựa quậy mình trong vũng máu.
Na i au mea whakarihariha katoa, i ou kairautanga, kihai koe i mahara ki nga ra o tou tamahinetanga, i a koe e noho tahanga ana, kahore he kakahu, i a koe i oke ra i roto i ou toto.
23 Khốn cho ngươi, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán. Ngoài những tội ác đã phạm,
Na i muri i tou he katoa; aue, te mate mou, aue, te mate mou! e ai ta te Ariki, ta Ihowa,
24 ngươi còn xây cất miếu thờ tà thần và dựng bàn thờ tại mỗi góc phố.
Kei te hanga koe i te whare tairanga mou, mahia ana e koe he wahi tiketike mou i nga waharoa katoa.
25 Trên mỗi góc đường ngươi dâng nhan sắc mình cho khách qua đường, buôn hương bán phấn không biết chán.
Kua hanga ano e koe tau wahi tiketike ki nga ahunga katoa o nga ara, meinga ana e koe tou ataahua kia whakariharihangia, whewhera tonu ou waewae ki nga tangata e haere ana i tou taha, whakamaha ana e koe tou kairautanga.
26 Ngươi còn bán dâm cho người Ai Cập, là kẻ láng giềng dâm đãng, ngươi cố tình chọc giận Ta với tội lỗi ngày càng nhiều.
Kua kairau ano koe ki nga Ihipiana, ki ou hoa tata, he hunga kikokiko nui; whakamaha ana e koe tou kairautanga, hei whakapataritari i ahau.
27 Đó là tại sao Ta đưa tay đánh ngươi và thu hẹp lãnh thổ ngươi. Ta phó ngươi vào tay người Phi-li-tin, là kẻ thù ghét ngươi và cũng hổ thẹn về hành vi dâm đãng của ngươi.
Na reira, nana, kua totoro atu toku ringa ki runga ki a koe, kua whakaititia ano e ahau nga kai i rite mau, a hoatu ana koe e ahau ki ta ou hoariri i pai ai, ki nga tamahine a nga Pirihitini, e whakama nei ki tou ara puremu.
28 Ngươi cũng hành dâm với người A-sy-ri. Dường như ngươi không thấy đủ khi tìm người yêu mới! Sau khi ngươi đã bán dâm cho chúng nó, ngươi vẫn chưa thỏa mãn.
I kairau ano koe ki nga Ahiriana, he kore hoki nou e ngata; ina, kairau ana koe ki a ratou, otiia kihai koe i ngata.
29 Ngươi cũng đã bán dâm cho người Ba-by-lôn, là xứ thương mại, nhưng ngươi cũng chưa thỏa mãn.
Kua whakamaha ano e koe ou kairautanga ki te whenua o Kanaana a Karari atu ana; heoi kihai ano i ngata i tenei.
30 Lòng ngươi thật bệnh hoạn, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán, nên ngươi đã hành động như thế, hành động như một kỹ nữ trơ trẽn.
Ano te ngoikore o tou ngakau, e ai ta te Ariki, ta Ihowa, i tau mahinga i enei mea katoa, he mahi na te wahine kairau, na te mea taikaha;
31 Ngươi dựng các miếu thờ tà thần trên mỗi góc đường và bàn thờ tà thần trong mỗi quảng trường. Thực tế, ngươi còn xấu hơn kỹ nữ nữa, vì ngươi bán dâm mà không nhận tiền công.
I tau hanganga i tou whare tairanga ki te ahunga mai o nga ara katoa, i tau mahinga i tau wahi tiketike ki nga waharoa katoa; kihai tau i rite ki ta te wahine kairau, e whakahawea ana hoki koe ki te utu;
32 Phải, ngươi là vợ ngoại tình không ở với chồng mà chỉ ưa khách lạ.
He wahine moe hoa, i puremu! e tuku mai ana i nga tangata ke ehara nei i te hoa nona!
33 Thường thì khách trả tiền cho kỹ nữ—nhưng ngươi thì không! Ngươi lại tặng quà tình nhân, đút lót để chúng đến và hành dâm với ngươi.
E hoatu ana e ratou he mea ki nga wahine kairau katoa: ko koe ia e hoatu ana i ou taonga ki te hunga katoa e hiahia ana ki a koe, a utua ana ratou e koe, he mea kia haere mai ai ratou ki a koe i nga taha katoa ki ou kairautanga.
34 Ngươi thật khác hẳn mọi kỹ nữ. Ngươi trả tiền cho tình nhân ngươi, thay vì chúng phải trả cho ngươi!”
He rere ke hoki tau i ta etahi wahine i ou kairautanga, ina kahore tetahi e aru ana i a koe, kairau ai: i te mea hoki ka hoatu e koe he utu, a kahore he utu e homai ki a koe, na ka rere ke tau.
35 “Vì thế, kỹ nữ, hãy lắng nghe sứ điệp của Chúa Hằng Hữu!
Mo reira whakarongo, e te wahine kairau, ki te kupu a Ihowa.
36 Đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: Vì ngươi đã đổ ra sự ô uế và phơi bày ngươi trong dâm loạn với tất cả tình nhân ngươi, vì ngươi đã thờ lạy các thần tượng ghê tởm, và vì ngươi tàn sát con cái ngươi làm sinh tế cho các thần tượng,
Ko te kupu tenei a te Ariki, a Ihowa. Na kua ringihia atu na tou weriweri, kua kitea ano koe e noho tahanga ana i ou kairautanga ki te hunga i hiahia ki a koe; a he mea ki au whakapakoko whakarihariha katoa, ki te toto hoki o au tamariki i hoatu na e koe ki a ratou;
37 đây là điều Ta sẽ làm. Ta sẽ tập hợp tất cả đồng minh của ngươi—là những tình nhân mà ngươi đã phạm tội, cả những người ngươi yêu và những người ngươi ghét—và Ta sẽ lột trần ngươi trước mặt chúng để chúng nhìn ngắm ngươi.
Mo reira ka huihuia katoatia e ahau te hunga katoa i hiahia ki a koe, au i ahuareka ai, ratou ko te hunga katoa i aroha ai koe, ko te hunga katoa hoki i kino ai koe; ina, ka huihuia ratou e ahau ki a koe i tetahi taha, i tetahi taha ka whakakite a ano koe e ahau ki a ratou e noho tahanga ana, kia kite ai ratou i ou wahi katoa e takoto kau ana.
38 Ta sẽ hình phạt ngươi vì tội giết người và ngoại tình. Ta sẽ phủ máu lên ngươi trong cơn ghen tị dữ dội của Ta.
Na ko taku whakawa i a koe ka rite ki te whakawa o nga wahine kua takahi i te ture marena, o nga wahine kua whakaheke toto; a ka hoatu e ahau ki a koe te toto o te weriweri, o te hae.
39 Ta sẽ nộp ngươi vào tay các nước là tình nhân ngươi, và chúng sẽ tiêu diệt ngươi. Chúng sẽ phá đổ các miếu thờ tà thần và các bàn thờ thần tượng của ngươi. Chúng sẽ lột quần áo ngươi, tước đoạt nữ trang xinh đẹp của ngươi, rồi để ngươi trần truồng, nhục nhã.
Ka tukua ano koe e ahau ki to ratou ringa, a ka whakahoroa e ratou tou whare tairanga, ka wahia au wahi tiketike; ka huia atu ano ou kakahu, ka tangohia au mea whakapaipai, a ka waiho koe kia noho tahanga ana, kahore he kakahu.
40 Chúng sẽ đem côn đồ đến, ném đá ngươi, dùng gươm chặt người thành từng mảnh.
Ka kawea mai ano e ratou he ropu hei whawhai ki a koe, a ka akina koe ki te kohatu, ka werohia ki a ratou hoari, puta rawa.
41 Chúng sẽ đốt nhà ngươi, xét xử ngươi trước mắt nhiều phụ nữ. Ta sẽ làm cho ngươi chừa tội dâm loạn và chấm dứt việc đưa tiền cho nhiều tình nhân của ngươi nữa.
Ka tahuna ano e ratou ou whare ki te ahi, ka mahia ano he whakaritenga ki a koe i te tirohanga a nga wahine tokomaha; a ka meinga e ahau kia mutu ou kairautanga, e kore ano he utu e hoatu e koe a muri ake nei.
42 Vậy, cơn giận Ta sẽ nguôi, và cơn ghen cũng hết. Ta sẽ điềm tĩnh, không giận ngươi nữa.
Heoi ka ngata i kona toku riri ki a koe, ka tahuri atu toku hae i a koe, a ka ata noho ahau, e kore ano e riri ki a koe a muri ake nei.
43 Nhưng trước hết, vì ngươi không nhớ gì đến thời tuổi trẻ, nhưng cố tình làm Ta giận bằng những việc ác đó, nên Ta sẽ báo trả ngươi theo tội lỗi ngươi, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán vậy. Chính ngươi đã thêm những điều dâm ô với những việc ghê tởm đó.
No te mea kihai koe i mahara ki nga ra o tou taitamahinetanga, heoi whakaporeareatia ana ahau e koe ki enei mea katoa; mo reira tenei ahau te hoatu nei i tou tikanga ki runga ki tou mahunga, e ai ta te Ariki, ta Ihowa; e kore ano tenei weriweri e honoa iho e koe ki au mea whakarihariha katoa.
44 Mọi người sẽ ứng dụng tục ngữ này cho ngươi: ‘Mẹ nào, con nấy.’
Nana, ko te hunga katoa e korero ana i nga whakatauki, ko ta ratou whakatauki tenei mou, e mea nei, kei te whaea tonu te rite o tana tamahine.
45 Vì mẹ ngươi đã khinh chồng ghét con, thì ngươi cũng thế. Ngươi cũng giống hệt các chị em ngươi, vì chúng cũng khinh ghét chồng con mình. Thật, mẹ ngươi là người Hê-tít, và cha ngươi là người A-mô-rít.
Ko koe te tamahine a tou whaea, e anuanu ra ki tana tahu, ki ana tamariki hoki; a ko koe te teina o ou tuakana, i whakarihariha nei ki a raua tahu, ki a raua tamariki hoki: he Hiti to koutou whaea, he Amori to koutou papa.
46 Chị ngươi là Sa-ma-ri sống với các con gái nó ở miền bắc. Em ngươi là Sô-đôm sống với các con gái nó ở miền nam.
Na ko Hamaria tou tuakana, e noho nei i tou taha maui, ratou ko ana tamahine: a, ko tou teina, e noho na i tou taha matau, ko Horoma ratou ko ana tamahine.
47 Ngươi không phạm tội ác như chúng nó, vì ngươi xem đó là quá thường, chỉ trong thời gian ngắn, tội ngươi đã vượt xa chúng nó.
Heoi kihai koe i haere i runga i o raua ara, kihai ano tau mahi i rite ki a raua mea whakarihariha; engari, me te mea nei he mea iti rawa tera, neke noa atu tou tutua i to ratou i ou ara katoa.
48 Thật như Ta hằng sống, Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán, Sô-đôm và các con gái nó chưa hề phạm tội lỗi như ngươi và các con gái ngươi.
E ora ana ahau, e ai ta te Ariki, ta Ihowa, kihai te mahi a tou teina, a Horoma, ratou ko ana tamahine i rite ki tau mahi, ki tau, ki ta au tamahine.
49 Tội của Sô-đôm em ngươi là kiêu căng, lười biếng, và chẳng đưa tay cứu giúp người nghèo nàn túng thiếu trong khi thừa thải lương thực.
Nana, ko te he tenei o tou teina, o Horoma; he whakapehapeha i roto i a ia, i a ratou ko ana tamahine, he takapu ki i te taro, he ngakau warea i te nui taonga; kihai hoki ia i whakau ake i nga ringa o te ware, o te rawakore.
50 Ta thấy nó ngạo mạn làm những việc ghê tởm nên đã tiêu diệt nó.
A i whakakake ratou, i mahi hoki i te mea whakarihariha ki toku aroaro: no reira i unuhia atu ai ratou e ahau, kei taku i kite ai he pai.
51 Tội của Sa-ma-ri không bằng phân nửa tội của ngươi, vì ngươi nhiều gian ác hơn chị, nên so sánh với ngươi, chị ngươi hầu như được kể là công chính.
Kihai hoki o Hamaria i rite ki te hawhe o ou hara; engari i whakanuia atu e koe au mea whakarihariha i a ratou, ka ai hoki au mea whakarihariha katoa i mahia e koe hei whakatika mo ta tou tuakana, mo ta tou teina.
52 Ngươi thật nhục nhã! Ngươi phạm quá nhiều tội ác, nên so với ngươi, chị ngươi còn công chính hơn, đạo đức hơn.
Na ko koe, whakawaha e koe tou na whakama, nau na i whakatika tou teina, tou tuakana; na ou hara i hara ai koe, he nui atu nei te whakarihariha i o raua, ka nui atu to raua tika i tou: ae ra, kia numinumi hoki koe, kia waha i tou whakama, kua wh akatikaia na hoki e koe ta tou teina, ta tou tuakana.
53 Nhưng Ta sẽ khôi phục vận mệnh của Sô-đôm và Sa-ma-ri; Ta cũng sẽ khôi phục vận mệnh Giu-đa nữa.
Na ka whakahokia raua e ahau i te whakarau, a Horoma, me ana tamahine i te whakarau, a Hamaria me ana tamahine i te whakarau, ko ou whakarau i te whakarau, i roto i a ratou:
54 Hình phạt nhục nhã ngươi phải chịu sẽ là niềm an ủi cho các chị em ngươi.
Kia mau ai ki a koe tou whakama, kia numinumi kau ai mo nga mea katoa i mea ai koe, i a koe ka waiho na hei whakamanawatanga mo ratou.
55 Phải, chị em ngươi, là hai thành phố Sô-đôm và Sa-ma-ri, và tất cả con dân của chúng sẽ được phục hồi, và cùng thời gian đó, ngươi cũng sẽ được phục hồi.
Ka hoki tou teina, a Horoma ratou ko ana tamahine, ki to ratou tu o mua, a ka hoki a Hamaria ratou ko ana tamahine ki to ratou tu o mua, ka hoki ano koutou ko au tamahine ki to koutou tu o mua.
56 Trong những ngày kiêu hãnh, ngươi đã không buồn nhắc tới Sô-đôm.
Kihai na hoki tou teina, a Horoma, i rangona i roto i tou mangai i te ra i tou whakakake,
57 Nhưng nay tội ác ngươi bị phát hiện, ngươi trở thành tấm bia sỉ nhục cho Ê-đôm, Phi-li-tin vì các tội dâm ô và kinh tởm của ngươi.
I te mea kiano tou he i hurahia, i te wa iara o te tawainga a nga tamahine a Hiria, a te hunga katoa i tetahi taha ona, i tetahi taha, a nga tamahine a nga Pirihitini e whakahawea na ki a koe i tetahi taha, i tetahi taha.
58 Đây là hình phạt cho tội dâm dục và ghê tởm của ngươi, Chúa Hằng Hữu phán vậy.
Kua mau ki a koe tou he, me au mea whakarihariha, e ai ta Ihowa.
59 Bây giờ, đây là điều Chúa Hằng Hữu Chí Cao phán: Ta sẽ báo trả những việc ngươi đã làm là bội thề, phản ước.
Ko te kupu hoki tenei a te Ariki, a Ihowa: Ko taku mahi ki a koe ka rite ki tau mahi; kua whakahawea na hoki koe ki te oati, whakataka ana e koe te kawenata.
60 Nhưng Ta sẽ nhớ giao ước đã lập với ngươi từ ngày ngươi còn trẻ, và Ta sẽ lập giao ước vĩnh viễn với ngươi.
Otiia ka mahara ano ahau ki taku kawenata ki a koe i nga ra o tou taitamahinetanga, ka pumau ano i ahau he kawenata ki a koe a ake ake.
61 Ngươi sẽ nhớ lại tội ác đã làm, sẽ xấu hổ khi Ta ban đặc ân cho ngươi. Ta sẽ khiến chị em ngươi, là Sa-ma-ri và Sô-đôm, sẽ làm con gái của ngươi, mặc dù chúng không có phần trong giao ước của Ta và ngươi.
Hei reira ka mahara koe ki ou ara, ka whakama, ina riro i a koe ou tuakana, tou teina; a ka hoatu raua e ahau ki a koe hei tamahine, otiia ehara i te mea na tau kawenata.
62 Ta sẽ tái xác nhận giao ước của Ta với ngươi, và ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa Hằng Hữu.
Ka pumau ano i ahau taku kawenata ki a koe, a ka mohio koe ko Ihowa ahau;
63 Như vậy, ngươi sẽ nhớ tội lỗi ngươi và hổ thẹn ngậm miệng khi Ta tha thứ mọi điều ngươi đã làm. Ta, Chúa Hằng Hữu Chí Cao, phán vậy!”
Kia mahara ai, kia numinumi kau ai koe, kia kaua ai hoki e puaki tou mangai i muri iho, mo tou whakama hoki; ina marie ahau ki a koe, ki nga mea katoa i mea ai koe, e ai ta te Ariki, ta Ihowa.