< Ê-phê-sô 6 >
1 Con cái phải vâng lời cha mẹ trong Chúa, đó là điều phải.
Hagi mofavremotma, tamarera tamafa kea antahizmita amage anteho, tamagra Rantimofo suza mani'naze. E'inahu'ma hanageno'a knare hugahie.
2 “Phải hiếu kính cha mẹ,” là điều răn đầu tiên có kèm theo lời hứa:
Pusa kasegefina, huvempa ke'ne agu'afina me'negu, neramrerane neramafa ke antahita amage anteho.
3 Nếu con cái hiếu kính cha mẹ thì “nhờ đó con mới được phước và sống lâu trên đất.”
E'inama hanutma knare hugahaze, ana nehutma za'za kna'a ama mopafina manigahaze. (Eks-Ati 20:12)
4 Cha mẹ không nên chọc giận con cái, nhưng phải nuôi nấng, sửa trị, dạy dỗ chúng theo đường lối Chúa.
Zamafaheta mofavre nagatmia zamarimpa eri haviza osiho, hanki zamazeri fatgo nehutma zamavumro nezmantetma, Ramo'ma hu'neankante antetma huzmasmiho.
5 Đầy tớ phải vâng lời chủ, thành thật kính sợ vâng phục chủ như vâng phục Chúa Cứu Thế.
Hagi kazokzo eri'za vahe'motma, tamagra kva tamima mani'nesimofonku kore hunentetma tamahirahi neresigeta kezmia amage anteta, tamagu'areti kazigazi huta, Kraisi eri'za enerizankna huta eriho.
6 Không phải chỉ lo làm vừa lòng chủ khi có mặt, nhưng luôn cố gắng phục vụ chủ như phục vụ Chúa Cứu Thế, hết lòng làm theo ý muốn Đức Chúa Trời.
Mopafi kva vahe'tmimo'za neramagesageta eri'zana erisunke'za muse hanaze osiho. Hianagi Kraisi kazokzo eri'za vahe nesampreta, tamagu'areti Anumzamofo avemanesia zanke hugahaze.
7 Phải tận tâm phục vụ như đầy tớ của Chúa, chứ không phải của người ta.
Mopafi vahe'mokizmi eri'zana e'norizanki, so'e tamarimpareti Ramofo eri'zana eriho.
8 Nên nhớ Chúa sẽ tưởng thưởng mọi người tùy theo việc tốt lành họ làm, vô luận đầy tớ hay chủ.
Antahi ankero, mago'mo'ma knare eri'zama enerisuno'a, e'i ana knare eri'zamofo nona'a Ramofonteti mizana erigahie. Kazokzo eri'za ne'mopi amne ne'mopi mago'zahu zanke huke mizana erigaha'e.
9 Người chủ cũng phải đối xử với đầy tớ cách ngay thẳng chính đáng như thế, không được dọa nạt. Nên nhớ anh chị em và họ đều có chung một Chủ trên trời là Chúa Cứu Thế, và Ngài chẳng thiên vị ai.
Hanki kva vahe'motama, eri'za vahetmia magozahu tamavutma hunezmantetma, zamazeri korera osiho, monafi nemania kva ne'mo tarega'motma kva mani'ne, hankino Agra mago'mofona azeri knare nehuno, mago'mofona azeri havizana osugahie.
10 Sau hết, anh chị em phải mạnh mẽ trong Chúa nhờ năng lực kiên cường của Ngài.
Hanki vagare nanekema tamasmisuana, Ramofonte hanavetitma Agri hihamu'mofo hanavefi manigahaze.
11 Hãy trang bị đầy đủ khí giới của Đức Chúa Trời để có thể đứng vững đối phó với mọi mưu kế của quỷ vương.
Maka Anumzamofo ha' kukena eri hankreho, ana nehutma Sata'ma reramatgama hania zampina oti hanavetitma manigahaze.
12 Vì chúng ta không chiến đấu chống người trần gian nhưng chống lại quyền lực vô hình đang thống trị thế giới tối tăm này và chống các tà linh trên trời. (aiōn )
Na'ankure tagra mopafi vahe'enena hara nosune, hagi mopafi kva hu'naza vahe'ene, hihamune havi avamutamine, mopafi hanizamofo kva hu'naza ha' vahe'ene, mona kankamumpima kefozamofo ha' avamu'ene hara nehune. (aiōn )
13 Vậy hãy mặc toàn bộ áo giáp của Đức Chúa Trời, để anh chị em có thể chiến đấu lúc bị tiến công, và khi chiến cuộc đã qua, anh chị em là người toàn thắng.
E'i zanku maka Anumzamofo ha' kukena hiho, ana hu'netma havi knafine ana maka'zama hanafina oti hanave tigahaze.
14 Muốn được như thế anh chị em phải nai nịt lưng bằng chân lý, mặc sự công chính làm giáp che ngực.
E'i zanku oti hanavenetita, tamage kereti tamu nofira nehutma, fatgo avu'ava'zana tamahihi'zarera hanko antea kna hiho.
15 Mang giày sẵn sàng từ Phúc Âm hòa bình.
Knare Musenkefinti e'nea rimpa fru kea, tamagia ano anteakna nehuta, hanavetita otigahaze.
16 Luôn luôn dùng thuẫn đức tin để gạt đỡ mọi tên lửa của Sa-tan.
Maka zampina, tamentintimo'a hanko tamigna hu'nena, Sata'ma teve taginteno'ma tamagritega ahetresigeno esnia kevea resu hugahie.
17 Đội nón sắt cứu rỗi, cầm bảo kiếm của Thánh Linh là Lời Đức Chúa Trời.
Anumzamo'ma tamagu'vazino tamazahu'nea antahintahia, fetori kna hutma tamasenirera antegahaze. Avamu'mofo kazinknona Anumzamofo naneke eneritma,
18 Phải luôn luôn cầu nguyện trong mọi trường hợp, nài xin mọi điều theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. Phải cảnh giác và kiên nhẫn cầu thay cho tất cả tín hữu.
maka zupa nunamu huvava nehutma, avamupi nunamuna hutma antahigeho. Ana nehanutma tamagra kva hu'netma kazigazi hutma maka Anumzamofo vahekura (kristen) nunamu hutma Anumzamofona antahigeho.
19 Cũng cầu nguyện cho tôi có lời của Chúa mỗi khi mở miệng, để tôi dạn dĩ công bố huyền nhiệm của Phúc Âm.
Ana nehutma nagriku nunamu hutma antahigenkeno, nagira erioza hanige'na korera osu'na hanavetina oku'a me'nea naneke huama hu'na Knare Musenkea zamasmi'neno.
20 Chính vì Phúc Âm mà tôi làm sứ thần trong lao tù, nhưng hãy cầu xin Chúa cho tôi cứ bạo dạn công bố Phúc Âm dù phải bị xiềng xích tù đày.
Na'ankure nagri'ma nazeri oti'nege'na, Agri agi eri'na seni nofite kina hu'na mani'nena, ana nanekema hanufina nagra hanaveti'na mani'nena huama ha'neno.
21 Ty-chi-cơ, anh yêu dấu của chúng ta, đầy tớ trung thành của Chúa, sẽ tường thuật mọi việc cho anh chị em, để anh chị em biết rõ tình trạng và hoạt động của chúng tôi.
Hu'neanagi, nagrama mani'noa zamofona, Tikikusima tavesinentona nerafu'ma, Rantimofo eri'za ne'mo maka nanekea tamasmisigeta tamagra antahigahaze.
22 Tôi cử anh ấy đến thăm anh chị em để biết rõ tình trạng anh chị em hiện nay và an ủi khích lệ anh chị em.
Nagra anazanku hu'na huntogeno tamagritega neviankitma tagenke'a nentahisageno tamagu'a tamazeri hanavetigahie.
23 Cầu xin Đức Chúa Trời là Cha và Chúa Cứu Thế Giê-xu ban cho anh chị em sự bình an, tình yêu thương và đức tin.
Hagi tafuhetane, tasareheta tamamentinti nehutma ovesinte avesintema nehaza naga'motma, Anumza Nerafanteti'ene, Ranti Jisas Kraisine rimpa fruzamo'a tamagrane mesie.
24 Cầu xin ân sủng ở với tất cả những người yêu mến Chúa Cứu Thế Giê-xu với tình yêu bất diệt.
Asunku zamo'a Ranti Jisas Kraisinku avesinte vava nehaza vahepi me'nenkeno, avesi'ma nentaza zamo'a vaga oregahie. Tamage.