< Ða-ni-ên 12 >

1 “Đến thời ấy, Mi-ca-ên, thiên sứ trưởng đại diện Ít-ra-ên trước ngôi Đức Chúa Trời, sẽ đứng lên chiến đấu để bảo vệ dân Chúa. Dân tộc Ít-ra-ên sẽ trải qua một thời kỳ đại nạn chưa từng có từ ngày dựng nước. Tuy nhiên, tất cả những người đã có tên ghi trong sách đều sẽ được giải cứu.
Na lipufan se ma nukum nuknuk linen sac fahk, “In pacl sac, lipufan fulat Michael, su karingin mwet lom uh, el ac fah sikyak. Na ac fah oasr mwe lokoalok sikyak, su pa koluk oemeet ke tufahna oakwuki mutunfacl uh ah me nwe misenge. Ke sun pacl sac, mwet nukewa in facl sum ma simla inelos tari in book lun God, ac fah moulla.
2 Nhiều người ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, người thì được sống đời đời, người thì chịu tủi hổ, sỉ nhục đời đời.
Mwet puspis sin mwet ma misa tari ac fah sifil moulyak: kutu selos ac fah engankin moul ma pahtpat, ac kutu ac fah keok ac mwekin ma pahtpat.
3 Những người khôn sáng tức là những người biết Chúa sẽ chiếu sáng như bầu trời giữa trưa và những ai dìu dắt nhiều người về cùng Chúa sẽ rực rỡ như các ngôi sao cho đến đời đời mãi mãi.
Mwet kol lalmwetmet uh elos ac fah saromrom ke kalem wolana lun acn lucng, ac elos su luti nu sin mwet in oru ma pwaye uh ac fah saromrom oana itu nwe tok.”
4 Còn anh, Đa-ni-ên, hãy giữ kín những lời này và đóng ấn niêm phong sách này cho đến thời kỳ cuối cùng, nhiều người sẽ đi đây đi đó để sự hiểu biết được gia tăng.
El fahk nu sik, “Inge, Daniel, lumwani book sacn, ac sang sie sil an nu kac nwe ke na safla faclu. Ac in pacl se inge, mwet puspis ac fah sisla wel pacl lalos in suk kalmen ma sikyak inge.”
5 Lúc ấy, tôi, Đa-ni-ên, quan sát và thấy hai người ở hai bên bờ sông.
Na nga liye mwet luo tu pe infacl soko, sie ke la infacl uh, ac sie ke la.
6 Một người hỏi người mặc áo vải gai mịn đang đứng trên mặt sông: Cuộc bức hại sẽ kéo dài đến khi nào mới chấm dứt?”
Sie seltal siyuk sin lipufan se ma tu lucng lukeltal ke infacl uh, ac fahk, “Ma usrnguk inge ac orek nwe safla ngac?”
7 Người mặc áo vải gai mịn đưa hai tay lên trời chỉ Đấng Hằng Sống đời đời mà thề rằng: “Phải mất ba năm rưỡi. Khi nào uy quyền của dân thánh bị tước đoạt hoàn toàn, những ngày hoạn nạn mới chấm dứt.”
Lipufan sac sralak kewa paol nu lucng ac orala sie wulela ku ke Inen God su moul ma pahtpat. Ac nga lohng el fahk, “Ac oan yac tolu tafu. Ac safla akkeok nu sin mwet lun God uh, tuh na ma inge nukewa orekla tari.”
8 Tôi nghe hết những lời ấy nhưng không hiểu, nên hỏi lại: “Thưa Ngài, bao giờ mới đến ngày kết cuộc?”
Nga lohng ma el fahk ah, tuh nga tiana kalem kac. Na nga siyuk sel, “Leum se, ac fuka saflaiya?”
9 Người đáp: “Đa-ni-ên ơi, anh đi đi, vì mãi cho đến ngày cuối cùng người ta mới hiểu được những lời này.
Na el fahk, “Daniel, enenu kom in som inge, mweyen kas inge ac fah wikinyukla ac oanna in lukma nwe ke pacl safla uh.
10 Nhiều người sẽ được thánh hóa đến mức toàn thiện và chịu đủ cách thử luyện. Nhưng kẻ ác sẽ tiếp tục ghì mài trong tội ác. Không một kẻ ác nào hiểu lời huyền nhiệm, nhưng người khôn sáng sẽ hiểu được.
Mwet puspis ac fah aknasnasyeyukla. Mwet koluk uh ac fah tia kalem kac, ac elos ac nuna oru na ma koluk. Mwet lalmwetmet uh mukena pa ac kalem kac.
11 Từ khi chấm dứt cuộc tế lễ hằng ngày, và vật ghê tởm được dựng lên để thờ lạy, sẽ có 1.290 ngày.
Oe ke pacl se na ma kisa ke len nukewa uh tila orek ah, aok pacl se ma Mwe Aksangeng na Upa sac tuh sikyak ah, oasr len sie tausin luofoko eungoul lac.
12 Phước cho những người kiên nhẫn đứng vững đến 1.335 ngày!
Insewowo elos su tu na ku in tawi lalos nwe ke na safla pac len sie tausin tolfoko tolngoul limekosr uh!
13 Nhưng Đa-ni-ên ơi, anh hãy trung tín cho đến ngày qua đời. Anh sẽ được nghỉ ngơi và đến cuối cùng sẽ hưởng cơ nghiệp mình.”
“Ac kom, Daniel, kom in oaru nwe ke safla. Na kom ac fah misa, tusruktu kom ac sifil moulyak in eis mwe usru lom ke pacl safla uh.”

< Ða-ni-ên 12 >