< I Sa-mu-ên 14 >

1 Hôm sau, Giô-na-than nói với người vác khí giới cho mình: “Nào, chúng ta hãy đi qua bên đồn Phi-li-tin.” Nhưng Giô-na-than không cho cha mình hay.
Hagi mago zupa Jonatani'a hanko'are'ma erinentea nehaza ne' nevreno anage hu'ne, Egeta Filistia sondia vahe'ma emani'naza kumapi va'maneno, huno higene vu'na'e. Hianagi Jonatani'a vania zamofona nefana osami'ne.
2 Lúc ấy, Sau-lơ và 600 quân đang đóng ở ngoại ô thành Ghi-bê-a, dưới cây lựu ở Mi-gơ-rôn.
Hagi ana zupa Soli'a sondia vahe'ane Migroni kuma'mofo fegi'a Gibea tava'onte pomegreneti zafa agafafi seli nonkuma ome ante'za mani'naze. Anampina 600'a sondia vahe naza mani'naze.
3 Trong nhóm người của Sau-lơ có A-hi-gia, làm chức tế lễ, ông mặc ê-phót, áo của thầy tế lế. A-hi-gia là con A-hi-túp, anh Y-ca-bốt, cháu nội của Phi-nê-a, chắt của Hê-li, thầy tế lễ của Chúa Hằng Hữu tại Si-lô. Không người nào biết việc Giô-na-than rời khỏi trại Ít-ra-ên.
Hagi anampina mago nera pristi kukena hu'nea ne' mani'ne. Ana ne' agi'a Ahiza mani'neankino, nefa'a Ahitupu'e. Hagi Ahitupu nefu'a Ikabotie. Hagi Ahiza'a Ahitubu kasentegeno, Ahitubuna Finiasi kasentegeno, Finiasina Eli kasente'ne. Higeno Eli'a za'za kukena hu'neno Ra Anumzamofo pristi eri'za e'nerino Sailo kumate mani'nea nere. Hagi mago vahe'mo'e huno Jonatanima kumama atreno hate'ma viazana keno antahinora osu'ne.
4 Trên đường đến đồn Phi-li-tin, Giô-na-than phải qua một cái đèo nằm giữa hai rặng núi đá dốc đứng, tên là Bết-sốt và Sê-nê.
Hagi Filistia vahe'ma krerami'za vu'za e'zama nehaza mehinteti Jonatani'a kreramino Filistia vahe kumapi vunaku agesa antahi'ne. Hagi kantigamama me'na'a mehintremofo zanagi'a, Bozezine Senene.
5 Núi đá ở phía bắc đèo đối diện Mích-ma, còn núi phía nam đối diện Ghê-ba.
Hagi mago mehina noti kaziga Mikmasi marerigeno, magora Sauti kaziga Geba avuga mareri'ne.
6 Giô-na-than nói với người mang khí giới cho mình: “Chúng ta hãy tiến đến đồn của những người vô tín kia. Có lẽ Chúa Hằng Hữu sẽ giúp chúng ta, vì không điều gì có thể giấu Chúa Hằng Hữu. Chúa vẫn chiến thắng dù Ngài có nhiều đội quân hay chỉ có vài đội quân!”
Hagi Jonatani'a hanko'ama erinteno nevia nehaza nera asamino, Egeta oku zamavufaga taga osu vahe mopafi va'maneno. Ra Anumzamo agra'a hara taza huno hugahie. Hagi Ra Anumzamo'a rama'a vahekuro, osi'a vahekura agesa nontahianki, amne hara hugateregahie.
7 Người vác khí giới đáp: “Xin cứ làm theo điều ông cho là phải. Tôi xin theo ông hết lòng.”
Hagi hanko'ama e'neria nehaza ne'mo'a Janataninkura anage hu'ne, Nagra nazanoma hana zana, amane kamage ante'na hugahue.
8 Giô-na-than tiếp: “Trước tiên ta sẽ để cho địch thấy ta.
Higeno Jonatani'a huno, Egeta rugreramita amate va'manena Filistia vahe'mo'za tageho.
9 Nếu họ nói: ‘Hãy dừng lại đó nếu không chúng ta sẽ giết ông,’ thì chúng ta phải dừng lại và thôi không tiến lên đánh họ nữa.
Hagi zamagrama tagriku'ma hu'za anante mani'neketa va'mnenoma hanageta'a, zamagritega marerita ovugahuanki, ama anante otita manigahu'e.
10 Nhưng nếu họ nói: ‘Hãy lên đây và chiến đấu,’ thì chúng ta sẽ lên. Đó là dấu hiệu Chúa Hằng Hữu sẽ giúp chúng ta đánh bại họ.”
Hianagi zamagrama hu'za emarerioma hanageta'a tagra marerigahu'e. Na'ankure Ra Anumzamo'a e'i ana vahera tagri tazampi zamavarentegahue huno mago avame'za taveri hugahie.
11 Khi thấy hai người đến, quân Phi-li-tin trong đồn la lên: “Kìa! Người Hê-bơ-rơ đang chui ra khỏi hang trú ẩn.”
Anage nehuke ana taregamoke Filistia vahe'mo'zama kumapinti'ma zanage'are amate ome oti'na'e. Anama hake'za Filistia vahe'mo'za neznage'za amanage hu'naze, Hibru vahe'ma kerifima fraki'naza vahe'mo'za atirami'za azanki, keho.
12 Rồi họ lớn tiếng gọi Giô-na-than: “Lên đây, ta sẽ dạy cho các anh một bài học!” Giô-na-than nói với người vác khí giới: “Hãy trèo theo sau tôi, vì Chúa Hằng Hữu sẽ giúp chúng ta đánh bại họ.”
Hagi Filistia vahe'mo'za Jonatanine hanko'are'ma e'neria ne'enema nezanage'za kezanke hu'za, emareriketa mago'azana rempi huranamisune. Anage'ma hazageno'a Jonatani'a hanko'are'ma e'neria nehaza nera asamino, namefi navaririnka marerio. Na'ankure Ra Anumzamo'a Israeli vahe zamazampi anamu vahera zamavarentegahie.
13 Vậy hai người dùng cả tay và chân leo lên, Giô-na-than đánh quân Phi-li-tin ngã gục, người vác khí giới giết những ai đến phía sau họ.
Hagi ana mehimpi Jonatani'a azanteti azerino aganuti omere emere huno marenerigeno, hanko'are'ma e'neria nehaza ne'mo'a agumpi avaririno marerigeke, hara ome huke ana vahera zamahe'na'e.
14 Và họ giết chừng hai mươi người, nằm la liệt trên một khoảnh đất rộng chừng nửa mẫu.
Hagi Jonatani'ene hanko'are'ma e'neria nehaza ne'enena, ese hapina 20'a vahera 30'a mita naza hu'nea mopafi ome zamahe'na'e.
15 Sự kinh hoàng lan tràn trong đội quân Phi-li-tin, từ trong trại cho đến ngoài đồng, quân trong đồn và các toán quân đột kích. Như một trận động đất vừa giáng xuống, mọi người đều khiếp đảm.
Hagi anama higeno'a Filistia sondia vahe'mokizmi kumapima mani'nazane, fegu'ma mani'nazane, kumate kumate'ma nevu'za ha'ma nehaza sondia vahe'ene, miko Filistia vahe'mokizmi mopafina imi erige'za, tusia zamagogogu hu'naze. E'ina korozana Ra Anumzamo eri fore hu'ne.
16 Lính trên vọng canh của Sau-lơ ở tại Ghi-bê-a thuộc Bên-gia-min đều nhìn thấy cảnh quân địch chạy tới chạy lui hỗn loạn.
Hagi Benzameni mopa kazigama Soli naga'ma vahe'ma esagu kegava hu'za mani'naza naga'mo'za, kazana Filistia vahe kevu krefamo'za miko kaziga panani hu'za nefrage'za zamage'naze.
17 Sau-lơ ra lệnh: “Hãy điểm lại số quân rời khỏi hàng ngũ.” Khi kiểm lại, họ thấy thiếu Giô-na-than và người vác khí giới cho ông.
Ana zama fore higeno'a Soli'a sondia vahe huzmanteno, tamagra sondia vahera hamprita zamazeri antefatgo nehutma, iza amafina omaninefi keho. Hagi ana'ma hu'za hampriza kazana Jonatani'ene hanko'ama e'neria ne-enena omani'nake'za ke'naze.
18 Sau-lơ hét to với A-hi-gia: “Hãy đem Hòm Giao Ước của Đức Chúa Trời đến đây.” Vì lúc ấy Hòm của Đức Chúa Trời đang ở giữa người Ít-ra-ên.
Hagi Soli'a Ahizana amanage huno asami'ne, Ra Anumzamofo huhagerafi huvempage vogisia erinka eno. (Na'ankure ana knarera Israeli vahe'ene ana huhagerafi huvempage vogisia me'negeno hu'ne.)
19 Trong khi Sau-lơ còn đang nói với thầy tế lễ, tiếng ồn ào từ đồn Phi-li-tin càng lúc càng tăng. Vì vậy Sau-lơ nói với thầy tế lễ: “Hãy ngừng lại!”
Hagi pristi ne'enema kegagama anante'ma nehakeno'a, Filistia vahe kumapima panini hu'zama ufre efreme nehu'za rankege'ma nehaza zamo'a omerura hu'ne. Hianagi Soli'a pristi ne' Ahizana asamino, knareki atregeta hate vanune.
20 Sau-lơ tập họp quân sĩ, kéo ra trận. Một cảnh hỗn loạn đập vào mắt ông: Địch quân đang chém giết lẫn nhau.
Anama hige'za Soli'ene miko sondia vahe'ane eri atru hute'za hatera vu'naze. Hagi Filistia vahe'mo'za neginagi hu'za zamagra zamagra bainati kazinknonteti ome zamahe fri eme zamahe fri nehazage'za ke'naze.
21 Những người Hê-bơ-rơ bị địch chiêu dụ trước kia, đang ở trong đồn Phi-li-tin, nay chạy qua phía Sau-lơ và Giô-na-than.
Hagi ko'ma Filistia vahe'enema umani'naza Hibru sondia vahe'mo'za Jonatanine Solikizanirega ante'za Filistia vahera zamahe'naze.
22 Đồng thời, những người lánh nạn trên đồi núi Ép-ra-im hay được tin quân Phi-li-tin vỡ chạy, liền cùng nhau đuổi đánh quân địch.
Hagi mago'a Israeli vahe'ma Efraemi agona kokampima fraki'za mani'naza vahe'mo'za Filistia vahe'ma atre'za fraze kema nentahi'za, atirami'za zamagranena zamarotgo hu'za hara hu'naze.
23 Và như vậy, Chúa Hằng Hữu giải cứu Ít-ra-ên hôm ấy, chiến trận lan ra cho đến Bết-a-ven.
Hagi Ra Anumzamo'a ana zupa Israeli vahera zamaza hige'za, Bet-Avenia hara hugatere'za vu'naze.
24 Hôm ấy, quân sĩ Ít-ra-ên bị kiệt sức vì Sau-lơ có thề: “Từ nay cho đến tối, là khi ta trả thù xong quân địch, nếu ai ăn một vật gì, người ấy phải bị nguyền rủa.” Vậy không ai dám ăn gì hết,
Hagi ana zupa Israeli vahe'mo'za ne'zana onazageno hanavezami omane amne hu'ne. Na'ankure Soli'a hanavenentake ke huno, ha' vahe'ni'a nona hu'na zamahe'za huankita menina ne'zana oneta mani'ne'nunkeno kinaga omasegahie. Hagi iza'o ne'zama nesimo'a, sifna huntoankino Anumzamo'a azeri haviza hugahie.
25 dù họ vào một khu rừng, thấy mật ong nhỏ giọt xuống đất.
Hagi miko sondia vahe'mo'za zafafi ufre'za kazana tumerima'amo'a aviteno mopafina me'nege'za ke'naze. Hianagi mago'mo'e huno ana tumerina afino one'ne.
26 Họ không dám đụng đến mật ong, vì sợ lời thề.
Hagi tume rimo'a aviteno varehirami'neanagi Soli'ma hanave sifna kema hu'nea kegu kore nehu'za magore hu'za eri'za one'naze.
27 Nhưng Giô-na-than không biết cha mình có buộc quân sĩ tôn trọng lời thề trên, nên ông chấm đầu gậy vào mật, đưa lên miệng, và mắt ông sáng lên.
Hagi hanave kema nefa'ma hu'nea kea Jonatani'a ontahi'neankino, azompa'areti tumemofo rima'a reno neneno ame huno ete hanavea erino ruvunase'ne.
28 Nhưng một người thấy ông và nói: “Cha của ông đã buộc quân lính thề rằng bất cứ ai ăn trong ngày hôm nay sẽ bị nguyền rủa. Đó là lý do mọi người đều kiệt sức.”
Ana'ma higeno'a mago sondia ne'mo Jonatanina asamino, Negafa'a hanavege huno menina ne'zana oneho hu'ne. Hagi nesimo'a sifnafi manino haviza hugahie hu'negu ne'zana ama vahe'mo'za one mani'nageno hanavezamia omnegeno zamu evu evu nehie.
29 Giô-na-than nói: “Cha tôi đã gây khó khăn cho chúng ta! Nhờ nếm tí mật này, tôi thấy tỉnh người.
Hagi Jonatani'a huno, Nenfa'ma hu'nea kemo'a mikomota tazeri haviza hu'ne. Hagi keho, osi'a tumerima'ama noana hanave erina runavunase'noe.
30 Nếu mọi người được tự do ăn những thực phẩm lấy được của quân thù, thì quân ta có thể giết nhiều quân Phi-li-tin hơn nữa.”
Hagi ne'zana neho hige'za ha'ma hazafinti'ma eri'za ne'zama ne'nazaresina, rama'a Filistia vahe zamahontesine.
31 Hôm ấy, mặc dù đói mệt, quân Ít-ra-ên vẫn đánh giết quân Phi-li-tin nằm dài từ Mích-ma đến A-gia-lôn.
Hagi Israeli vahe'mo'za ana zupa ha'ma hu'nazana Filistia vahera Mikmasiti zamahe'za Aijaloni uhanatizageno, tusi zamavaresa higeno zaferina omane amne hu'ne.
32 Cuối cùng vì đói quá, họ xông vào bắt bò, chiên lấy được của địch, giết vội, ăn thịt chưa khô máu.
Hagi ana kinaga zamagare'za vu'za hapinti'ma eri'za e'naza sipisipima agonknaza hari'naza ve bulimakao afu'ma anenta bulimakao afu'enena ome ahe'za kre onte'ante hu'za korana me'nege'za ne'naze.
33 Có người báo với Sau-lơ: “Quân ta phạm tội với Chúa Hằng Hữu, ăn thịt vẫn còn máu.” Sau-lơ nói: “Tội này nặng lắm! Hãy tìm một khối đá lớn và lăn lại đây.
Hagi anama hazage'za mago'a vahe'mo'za Solina eme asami'za, kora me'nea ame'a nene'za Ra Anumzamofo avufina kumi nehazanki ko, hu'za hazageno Soli'a huno, mikomota tra kea rutagrazanki menintafa vuta have rezahe huta amare ementeho.
34 Rồi cho người đi truyền cho quân lính khắp nơi: ‘Đem bò, chiên, và dê đến cho ta. Hãy giết chúng, cho máu chảy ra hết rồi mới được ăn. Không được ăn thịt còn máu vì làm vậy là phạm tội với Chúa Hằng Hữu.’” Vậy, tối ấy quân lính đem súc vật của mình đến và giết chúng tại đó.
Hagi vuta ome zamasaminke'za sipisipi afu'zamine bulimakao afu'zamia ru kora me'nesige'za nene'za kumi hanagi, amare eme aheho. Ana hazageno ana kenagera ana maka sondia vahe'mo'za bulimakao afu'zmia avare'za eme ahegi'naze.
35 Sau-lơ lập một bàn thờ Chúa Hằng Hữu; đó là bàn thờ thứ nhất ông lập cho Chúa Hằng Hữu.
Anante Soli'a Ra Anumzamofonte'ma kresramana vunte ita tro hu'ne. E'i ana ita kora tro huno oke'neaza ese kna'a tro hu'ne.
36 Rồi Sau-lơ truyền lệnh: “Ta nên đuổi theo quân Phi-li-tin suốt đêm, và cướp phá họ cho đến sáng sớm. Không để một ai sống sót.” Quân lính tán thành: “Chúng tôi xin làm điều gì vua cho là phải.” Nhưng thầy tế lễ nói: “Chúng ta nên cầu hỏi Đức Chúa Trời trước.”
Hagi Soli'a sondia vahera amanage huno zamasami'ne, Enketa hanimpi vuta Filistia vahera hara ome hu'nezmantamanenkeno masa huno feruseno. Hagi magore huta ozamtregahunanki zamahe vagaregahune, hige'za sondia vahe'mo'za amanage hu'naze, Nazano huzmante'naku'ma hanana zana amane hugahane. Hianagi pristi ne'mo'a kenona huno, amare Anumzamofona antahigeta kesune.
37 Sau-lơ cầu hỏi Đức Chúa Trời: “Chúng con có nên đuổi theo người Phi-li-tin không? Ngài có cho chúng con thắng họ không?” Nhưng Đức Chúa Trời không đáp lời.
Higeno Soli'a Ra Anumzamofona antahigeno, knare natre'nanke'na Filistia vahera hara ome huzmantenugenka zamagrira Israeli vahe zamazampina zamavarentegahano? Hianagi ana zupa Ra Anumzamo'a kenona huonte'ne.
38 Thấy thế, Sau-lơ nói với các vị lãnh đạo: “Có điều gì sai trật sao! Hãy triệu tập tất cả tướng chỉ huy đến đây. Chúng ta phải tra cứu để tìm xem ai đã phạm tội hôm ấy.
Ana higeno Soli'a sondia kva vahetamina kehu tru huno, Iza kumira hu'negeno Ra Anumzamo'a kea osifi, refako huta kesune.
39 Ta đã nhân danh Chúa Hằng Hữu, Đấng cứu giúp Ít-ra-ên, mà thề rằng ai phạm tội chắc chắn phải chết, dù đó là Giô-na-than, con ta.” Nhưng không một ai đáp lời ông cả.
Hagi Israeli vahe'ma zamavare'nea Ra Anumzamofo Agifi huvempage huankino, iza'o ana kumi'ma hu'nesimo'a frigahie. Hagi nenamofo Jonatanima ana kumi'ma hu'nenuno'a frigahie. Hianagi mago'mo'e huno ana hazenkegura kea osu'ne.
40 Sau-lơ nói: “Giô-na-than và ta sẽ đứng bên này, còn mọi người đứng bên kia.” Mọi người đáp lời Sau-lơ: “Chúng tôi xin làm theo điều vua cho là phải.”
Hagi Soli'a mika Israeli vahera amanage huno zamasami'ne, Nagrane ne' mofavreni'anena amare otigahuanki, tamagra anture uotiho, huno zamasamige'za zamagra hu'za, kagri'ma kavesi'niaza huo.
41 Rồi Sau-lơ cầu nguyện: “Lạy Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, xin dạy cho chúng con biết ai có tội và ai vô tội.” Sau-lơ và Giô-na-than bị chỉ ra, còn những người khác vô can.
Anage hutazageno Soli'a amanage huno Ra Anumzamofontega nunamuna hu'ne, Israeli vahe'mokizmi Anumzamoka ama ana kumi'ma nagrane ne' mofavreni'anema hu'ne'nunkenka, pristi vahe'ma keno erifore hu zagoma reno kenigenka, Urimi erintegeno keno. Hagi Israeli vahe'mo'zama kumi'ma hu'ne'nagenka, Tamimi erintege'za keho. Anante ana zokagoma re'za kazana, Soline nemofo Jonatani suzamo e'ama higeno, Israeli vahe'mokizmi su'zamo'a e'amara osu'ne.
42 Sau-lơ lại cầu: “Xin chỉ định giữa con và Giô-na-than.” Giô-na-than bị chỉ danh.
Ana'ma higeno'a Soli'a huno, Nagri'ene nenamofo Jonataninte taisi zokagora reta keho, hige'za ana zokago'ma reza kazana, Jonatani su'amo e'ama hu'ne.
43 Sau-lơ hỏi Giô-na-than: “Con đã làm điều gì vậy?” Giô-na-than thưa: “Con đã nếm một chút mật trên đầu gậy. Con xin chịu chết.”
Ana higeno Soli'a nemofo Jonatanina antahigeno, nankna kumi hu'nampi nasamio, higeno Jonatani'a huno, Nagra azompanireti tumerina re'na ne'noe. Hagi nagrikura frigahie hananki, nahe frige'na fri'neno!
44 Sau-lơ nói: “Giô-na-than, con phải chết! Nếu không, xin Đức Chúa Trời phạt cha chết hay nặng hơn thế nữa.”
Higeno Soli'a anage hu'ne, Ozo Jonataniga frigahane. Hagi kahe ofrisugeno'a Anumzamo'a nahe frigahie.
45 Nhưng dân chúng nói với Sau-lơ: “Giô-na-than đã mang lại chiến thắng vĩ đại cho Ít-ra-ên. Lẽ nào người phải chết sao? Nhất định không! Chúng tôi thề trước Chúa Hằng Hữu Hằng Sống, Giô-na-than sẽ không mất một sợi tóc, vì chính người đã thực hiện công việc của Đức Chúa Trời hôm nay.” Như thế, dân chúng đã cứu Giô-na-than, và ông không phải chết.
Hianagi sondia vahe'mo'za Solinkura hu'za, Ra ha'ma huno Israeli vahe'ma tavre'nea ne' Jonatani ahefrigahue nehano? Ra Anumzamofo agifina Jonatanina avufarera avako huge, ahe ofrigera osugahane. Na'ankure Ra Anumzamo'ene tragoteno mani'neno hanavetino hara hu'neankinka, ohegosane. Anage nehu'za Jonatanina agu'vaziza avrazageno, Soli'a ahe ofri'ne
46 Sau-lơ bỏ ý định đuổi theo quân Phi-li-tin, và người Phi-li-tin trở về xứ mình.
Hagi ana zama hutegeno'a Soli'a Filistia vahe'ma zamarotagoma nehiretira zamatreno marerige'za, Filistia vahe'mo'za, ete kuma zamirega vu'naze.
47 Từ ngày lên làm vua Ít-ra-ên, Sau-lơ chiến đấu với địch khắp bốn bề: Quân Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, các vua của Xô-ba, và quân Phi-li-tin. Xuất quân phía nào vua dẹp yên phía ấy.
Hagi Soli'ma eama huno Israeli vahe kinima maniteno'a, maka kazigama Israeli vahe'mokizmi ha' vahe'ma mani'naza vahera hara huzamante'ne. Moapu vahe'ma, Amoni vahe'ma, Edomu vahe'ma, Zoba kini vahe'ma, Filistia vahera miko hara huzamanteno zamazeri haviza hu'ne.
48 Vua anh dũng chiến thắng quân A-ma-léc, và giải cứu Ít-ra-ên khỏi các nước đã cướp phá họ.
Hagi hanavetino Amaleki vahera hara hunezamanteno, zamagri zamazampinti'ene ha'ma huzmante'za zamazeri havizama nehaza vahe'mokizmi zamazampintira Israeli vahera zamavare'ne.
49 Sau-lơ có ba con trai là Giô-na-than, Ích-vi, và Manh-ki-sua. Ông cũng có hai con gái là Mê-ráp và Mi-canh.
Hagi Soli ne' mofavreramina, Jonataniki, Isviki Malkisue. Hagi tare mofa zanante'neankino zage mofa'amofo agi'a Merabuki, henkamofo agi'a Mikeli'e.
50 Vợ Sau-lơ là A-hi-nô-am, con gái A-hi-mát. Tướng chỉ huy quân đội của Sau-lơ là Áp-ne, con của Nê-rơ, chú Sau-lơ.
Hagi Soli nenaro agi'a Ahinoamukino, Ahimasi mofare. Hagi Soli sondia vahetema ugota hu'nea nemofo agi'a, Abnakino Neri nemofo'e. Hagi Neri'a, Solina nenogo'e.
51 Kích, cha Sau-lơ và Nê-rơ, cha Áp-ne đều là con của A-bi-ên.
Hagi Kisi'a Soli nefa manigeno, Neri'a Abna nefa mani'neankinke, zanagra kogna mani'na'e. Hagi nezanafa'a Abieli mani'ne.
52 Ít-ra-ên chiến đấu với quân Phi-li-tin dai dẳng suốt đời Sau-lơ. Mỗi khi Sau-lơ thấy người trai trẻ nào can đảm và mạnh mẽ, ông liền chiêu mộ vào đội quân của mình.
Hagi Soli'ma kinima manino e'nea knafina, Filistia vahe'enena rama'a zupa hara nehuno, koro'ma osu'za hanaveti'zama ha'ma haza Israeli vahera zamavareno agra'a sondia vahe zamantege'za mani'naze.

< I Sa-mu-ên 14 >