< I Các Vua 1 >

1 Vua Đa-vít đã già, tuổi cao; mặc dù người ta đắp bao nhiêu lớp áo, vua vẫn không thấy ấm.
Dawut padixaⱨ heli yaxinip ⱪalƣanidi; uni yotⱪan-ǝdiyal bilǝn yapsimu, u issimaytti.
2 Các cận thần vua tâu: “Xin cho phép chúng tôi đi tìm một trinh nữ để hầu hạ, săn sóc vua. Nàng sẽ nằm trong lòng vua làm cho vua ấm.”
Hizmǝtkarliri uningƣa: — Ƣojam padixaⱨ ɵzliri üqün, aldilirida turidiƣan bir pak ⱪiz tapⱪuzayli; u padixaⱨtin hǝwǝr elip, silining ⱪuqaⱪlirida yatsun; xuning bilǝn ƣojam padixaⱨ issiyla — dedi.
3 Vậy, người ta tìm khắp nước, và họ thấy A-bi-sác, ở Su-nem, là một trinh nữ trẻ đẹp, nên đem nàng về cho vua.
Ular pütkül Israil zeminini kezip güzǝl bir ⱪizni izdǝp yürüp, ahiri Xunamliⱪ Abixagni tepip padixaⱨning aldiƣa elip kǝldi.
4 Nàng rất đẹp, lo săn sóc, hầu hạ vua; nhưng vua không chăn gối với nàng.
Ⱪiz intayin güzǝl idi; u padixaⱨtin hǝwǝr elip uning hizmitidǝ bolatti, ǝmma padixaⱨ uningƣa yeⱪinqiliⱪ ⱪilmaytti.
5 Lúc ấy, con của Đa-vít, Hoàng tử A-đô-ni-gia, mẹ là Hà-ghi, tuyên bố: “Ta sẽ làm vua,” rồi sắm xe ngựa và tuyển năm mươi người chạy trước mở đường.
Əmma Ⱨaggitning oƣli Adoniya mǝrtiwisini kɵtürmǝkqi bolup: «Mǝn padixaⱨ bolimǝn» dedi. U ɵzigǝ jǝng ⱨarwiliri bilǝn atliⱪlarni wǝ aldida yüridiƣan ǝllik ǝskǝrni tǝyyar ⱪildi
6 Bấy giờ, cha người là Vua Đa-vít, chẳng trách cứ hoặc hỏi xem con mình muốn làm gì. A-đô-ni-gia, em kế Áp-sa-lôm, là người rất đẹp trai.
(uning atisi ⱨeqⱪaqan: «Nemixⱪa bundaⱪ ⱪilisǝn?» dǝp, uningƣa tǝnbiⱨ-tǝrbiyǝ beripmu baⱪmiƣanidi ⱨǝm u naⱨayiti kelixkǝn yigit bolup, anisi uni Abxalomdin keyin tuƣⱪanidi).
7 A-đô-ni-gia thuyết phục Tướng Giô-áp con bà Xê-ru-gia, Thầy Tế lễ A-bia-tha, họ bằng lòng theo giúp ông.
U Zǝruiyaning oƣli Yoab wǝ kaⱨin Abiyatar bilǝn mǝsliⱨǝt ⱪilixip turdi. Ular bolsa Adoniyaƣa ǝgixip uningƣa yardǝm berǝtti.
8 Tuy nhiên, Thầy Tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa, Tiên tri Na-than, Si-mê-i, Rê-i, và các dũng tướng của Đa-vít không theo A-đô-ni-gia.
Lekin kaⱨin Zadok wǝ Yǝⱨoyadaning oƣli Binaya, Natan pǝyƣǝmbǝr, Ximǝy, Rǝy wǝ Dawutning ɵz palwanliri Adoniyaƣa ǝgǝxmidi.
9 A-đô-ni-gia đi Ên-rô-ghên dâng chiên, bò, và thú vật béo tốt làm tế lễ trên Hòn đá Xô-hê-lết. Ông mời các anh em mình, là những con trai khác của Vua Đa-vít—và tất cả quan chức Giu-đa trong triều đình đến dự.
Adoniya ⱪoy, kala wǝ bordiƣan torpaⱪlarni Ən-Rogǝlning yenidiki Zoⱨǝlǝt degǝn taxta soydurup, ⱨǝmmǝ aka-ukilirini, yǝni padixaⱨning oƣulliri bilǝn padixaⱨning hizmitidǝ bolƣan ⱨǝmmǝ Yǝⱨudalarni qaⱪirdi.
10 Tuy nhiên, ông không mời Tiên tri Na-than, Bê-na-gia, các dũng tướng, và Hoàng tử Sa-lô-môn.
Lekin Natan pǝyƣǝmbǝr, Binaya, palwanlar wǝ ɵz inisi Sulaymanni u qaⱪirmidi.
11 Khi ấy, Tiên tri Na-than đến nói với Bát-sê-ba, mẹ Sa-lô-môn: “Bà có nghe việc A-đô-ni-gia, con Hà-ghi, lên làm vua trong khi vua cha không biết gì không?
Natan bolsa Sulaymanning anisi Bat-Xebaƣa: — «Anglimidingmu? Ⱨaggitning oƣli Adoniya padixaⱨ boldi, lekin ƣojimiz Dawut uningdin hǝwǝrsiz.
12 Bây giờ, tôi xin hiến kế để cứu mạng bà và mạng Sa-lô-môn, con bà.
Əmdi mana, ɵz jening wǝ oƣlung Sulaymanning jenini ⱪutⱪuzuxⱪa mening sanga bir mǝsliⱨǝt beriximkǝ ijazǝt bǝrgǝysǝn.
13 Bà đi ngay vào cung tâu với Vua Đa-vít như sau: ‘Có phải vua đã thề với tôi rằng: “Sa-lô-môn, con bà, sẽ kế vị ta và sẽ ngồi trên ngôi ta” không? Thế sao bây giờ A-đô-ni-gia lại làm vua?’
Dawut padixaⱨning aldiƣa berip uningƣa: — Ƣojam padixaⱨ ɵzliri ⱪǝsǝm ⱪilip ɵz kǝminilirigǝ wǝdǝ ⱪilip: «Sening oƣlung Sulayman mǝndin keyin padixaⱨ bolup tǝhtimdǝ olturidu» degǝn ǝmǝsmidilǝ? Xundaⱪ turuⱪluⱪ nemixⱪa Adoniya padixaⱨ bolidu? — degin.
14 Trong khi bà đang nói, tôi sẽ vào xác nhận với vua những lời bà nói là đúng.”
Mana, padixaⱨ bilǝn sɵzlixip turƣiningda, mǝnmu sening kǝyningdin kirip sɵzüngni ispatlaymǝn, — dedi.
15 Bát-sê-ba vào phòng vua nằm. (Lúc ấy vua Đa-vít rất già yếu, và có A-bi-sác ở đó săn sóc vua.)
Bat-Xeba iqkiri ɵygǝ padixaⱨning ⱪexiƣa kirdi (padixaⱨ tolimu ⱪerip kǝtkǝnidi, Xunamliⱪ Abixag padixaⱨning hizmitidǝ boluwatatti).
16 Bát-sê-ba cúi lạy vua. Vua hỏi: “Bà muốn gì?”
Bat-Xeba padixaⱨⱪa engixip tǝzim ⱪildi. Padixaⱨ: — Nemǝ tǝliping bar? — dǝp soridi.
17 Bà thưa: “Thưa vua, có phải vua thề trước Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của vua, rằng: ‘Sa-lô-môn, con bà, sẽ kế vị ta và ngồi trên ngôi ta’ không?
U uningƣa: — I ƣojam, sili Pǝrwǝrdigar Hudaliri bilǝn ɵz dedǝklirigǝ: «Sening oƣlung Sulayman mǝndin keyin padixaⱨ bolup tǝhtimdǝ olturidu» dǝp ⱪǝsǝm ⱪilƣanidila.
18 Thưa vua, bây giờ hóa ra A-đô-ni-gia làm vua, trong khi chúa tôi chẳng biết gì cả.
Əmdi mana, Adoniya padixaⱨ boldi! Lekin i ƣojam padixaⱨ, silining uningdin hǝwǝrliri yoⱪ.
19 A-đô-ni-gia tổ chức tế lễ, dâng bò, thú béo, và chiên vô số, đồng thời mời các hoàng tử, Thầy Tế lễ A-bia-tha, và Tướng Giô-áp đến dự, nhưng không mời Sa-lô-môn.
U kɵp kalilarni, bordaⱪ torpaⱪlar bilǝn ⱪoylarni soydurup, padixaⱨning ⱨǝmmǝ oƣullirini, Abiyatar kaⱨinni wǝ ⱪoxunning sǝrdari Yoabni qaⱪirdi. Lekin ⱪulliri Sulaymanni u qaⱪirmidi.
20 Bây giờ, toàn dân đang ngóng trông, xem vua chỉ định ai lên ngôi kế vị.
Əmdi, i ƣojam padixaⱨ, pütkül Israilning kɵzliri siligǝ tikilmǝktǝ, ular ƣojam padixaⱨning ɵzliridin keyin tǝhtliridǝ kimning olturidiƣanliⱪi toƣrisida ularƣa hǝwǝr berixlirini kütixiwatidu;
21 Còn nếu cứ để thế này, đến ngày vua an giấc với tổ tiên, con tôi là Sa-lô-môn và tôi sẽ bị đối xử như tội nhân.”
bir ⱪararƣa kǝlmisilǝ, ƣojam padixaⱨ ɵz ata-bowiliri bilǝn billǝ uhlaxⱪa kǝtkǝndin keyin, mǝn bilǝn oƣlum Sulayman gunaⱨkar sanilip ⱪalarmizmikin, — dedi.
22 Khi bà đang nói chuyện với vua thì Tiên tri Na-than đến.
Mana, u tehi padixaⱨ bilǝn sɵzlixip turƣinida Natan pǝyƣǝmbǝrmu kirip kǝldi.
23 Cận thần của vua báo: “Tiên tri Na-than xin gặp vua.” Na-than vào, phủ phục cúi chào cung kính.
Ular padixaⱨⱪa: — Natan pǝyƣǝmbǝr kǝldi, dǝp hǝwǝr bǝrdi. U padixaⱨning aldiƣa kiripla, yüzini yǝrgǝ yeⱪip turup padixaⱨⱪa tǝzim ⱪildi.
24 Na-than nói: “Muôn tâu, có phải vua đã truyền ngôi cho A-đô-ni-gia không?
Natan: — I ƣojam padixaⱨ, sili Adoniya mǝndin keyin padixaⱨ bolup mening tǝhtimdǝ olturidu, dǝp eytⱪanidilimu?
25 Vì hôm nay hoàng tử đã làm lễ đăng quang và dâng tế những thú vật béo tốt, cùng mời các hoàng tử, Tướng Giô-áp, và Thầy Tế lễ A-bia-tha đến dự. Hiện nay họ đang cùng nhau ăn uống với A-đô-ni-gia và tung hô: ‘Vua A-đô-ni-gia vạn tuế!’
Qünki u bügün qüxüp, kɵp buⱪa, bordiƣan torpaⱪlar bilǝn ⱪoylarni soydurup, padixaⱨning ⱨǝmmǝ oƣullirini, ⱪoxunning sǝrdarlirini, Abiyatar kaⱨinni qaⱪirdi; wǝ mana, ular uning aldida yǝp-iqip: «Yaxisun padixaⱨ Adoniya!» — dǝp towlaxmaⱪta.
26 Tuy nhiên, tôi cũng như Thầy Tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, và Sa-lô-môn đều không được mời.
Lekin ⱪulliri bolƣan meni, Zadok kaⱨinni, Yǝⱨoyadaning oƣli Binayani wǝ ⱪulliri bolƣan Sulaymanni u qaⱪirmidi.
27 Có phải vua chủ trương việc này không? Vì không thấy vua cho chúng tôi biết ai là người kế vị và ngồi trên ngôi của vua cả.”
Ƣojam padixaⱨ kimning ɵzliridin keyin ƣojam padixaⱨning tǝhtidǝ olturidiƣanliⱪini ɵz ⱪulliriƣa uⱪturmay u ixni buyrudilimu? — dedi.
28 Vua Đa-vít bảo: “Gọi Bát-sê-ba cho ta.” Bà trở vào đứng trước mặt vua.
Dawut padixaⱨ: — Bat-Xebani aldimƣa ⱪiqⱪiringlar, dedi. U padixaⱨning aldiƣa kirip, uning aldida turdi.
29 Vua thề: “Trước Chúa Hằng Hữu hằng sống, Đấng đã cứu ta khỏi mọi điều nguy hiểm,
Padixaⱨ bolsa: — Jenimni ⱨǝmmǝ ⱪiyinqiliⱪtin ⱪutⱪuzƣan Pǝrwǝrdigarning ⱨayati bilǝn ⱪǝsǝm ⱪilimǝnki,
30 ta xác nhận có thề với bà, nhân danh Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên rằng: ‘Sa-lô-môn, con bà, sẽ kế vị ta, ngồi trên ngôi thay ta,’ và hôm nay ta thực hiện điều ấy.”
mǝn ǝslidǝ Israilning Hudasi Pǝrwǝrdigar bilǝn sanga ⱪǝsǝm ⱪilip: «Sening oƣlung Sulayman mǝndin keyin padixaⱨ bolup ornumda mening tǝhtimdǝ olturidu» dǝp eytⱪinimdǝk, bügünki kündǝ mǝn bu ixni qoⱪum wujudⱪa qiⱪirimǝn, — dedi.
31 Bát-sê-ba phủ phục, cúi mặt sát đất, và tung hô: “Đức Vua Đa-vít vạn tuế.”
Wǝ Bat-Xeba yüzini yǝrgǝ yeⱪip turup padixaⱨⱪa tǝzim ⱪilip: — Ƣojam Dawut padixaⱨ ǝbǝdiy yaxisun! — dedi.
32 Vua truyền: “Gọi Thầy Tế lễ Xa-đốc, Tiên tri Na-than, và Bê-na-gia con Giê-hô-gia-đa vào đây.” Khi họ vào,
Dawut padixaⱨ: — Zadok kaⱨinni, Natan pǝyƣǝmbǝrni, Yǝⱨoyadaning oƣli Binayani aldimƣa qaⱪiringlar, dedi. Ular padixaⱨning aldiƣa kǝldi.
33 vua ra lệnh: “Các ông dẫn Sa-lô-môn và các bầy tôi ta xuống Ghi-hôn. Sa-lô-môn sẽ cưỡi con la của ta mà đi.
Padixaⱨ ularƣa: — Ƣojanglarning hizmǝtkarlirini ɵzünglarƣa ⱪoxup, Sulaymanni ɵz ⱪeqirimgǝ mindürüp, Giⱨonƣa elip beringlar;
34 Tại đó, Thầy Tế lễ Xa-đốc và Tiên tri Na-than sẽ xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua Ít-ra-ên; và thổi kèn tung hô:
u yǝrdǝ Zadok kaⱨin bilǝn Natan pǝyƣǝmbǝr uni Israilning üstigǝ padixaⱨ boluxⱪa mǝsiⱨ ⱪilsun. Andin kanay qelip: — Sulayman padixaⱨ yaxisun! dǝp towlanglar.
35 ‘Vua Sa-lô-môn vạn tuế!’ Xong rồi, các ông sẽ theo Sa-lô-môn về đây. Sa-lô-môn sẽ lên ngồi trên ngôi ta, vì được ta chỉ định làm vua Ít-ra-ên và Giu-đa.”
Andin u tǝhtimdǝ olturuxⱪa bu yǝrgǝ kǝlgǝndǝ, uningƣa ǝgixip menginglar; u mening ornumda padixaⱨ bolidu; qünki mǝn uni Israil bilǝn Yǝⱨudaning üstigǝ padixaⱨ boluxⱪa tǝyinlidim, — dedi.
36 Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa, đáp lời vua: “A-men! Cầu xin Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của chúa tôi cũng phán định như thế.
Yǝⱨoyadaning oƣli Binaya padixaⱨⱪa jawab berip: — Amin! Ƣojam padixaⱨning Hudasi Pǝrwǝrdigarmu xundaⱪ buyrusun!
37 Cầu Chúa Hằng Hữu ở với Sa-lô-môn như đã ở với chúa tôi. Xin Ngài làm cho ngôi nước của Sa-lô-môn lớn hơn cả ngôi nước của Vua Đa-vít!”
Pǝrwǝrdigar ƣojam padixaⱨ bilǝn billǝ bolƣandǝk, Sulayman bilǝn billǝ bolup, uning tǝhtini ƣojam Dawut padixaⱨningkidin tehimu uluƣ ⱪilƣay! — dedi.
38 Vậy, Thầy Tế lễ Xa-đốc, Tiên tri Na-than, Bê-na-gia, những người Kê-rê-thít, và Phê-lết nâng Sa-lô-môn lên lưng con la của Vua Đa-vít và rước ông xuống Ghi-hôn.
Zadok kaⱨin, Natan pǝyƣǝmbǝr, Yǝⱨoyadaning oƣli Binaya wǝ Kǝrǝtiylǝr bilǝn Pǝlǝtiylǝr qüxüp, Sulaymanni Dawut padixaⱨning ⱪeqiriƣa mindürüp, Giⱨonƣa elip bardi.
39 Tại đó, Xa-đốc cầm cái sừng đựng dầu lấy từ lều thánh, xức cho Sa-lô-môn. Họ thổi kèn và mọi người tung hô: “Vua Sa-lô-môn vạn tuế!”
Zadok kaⱨin ibadǝt qediridin may bilǝn tolƣan bir münggüzni elip, Sulaymanni mǝsiⱨ ⱪildi. Andin ular kanay qaldi. Hǝlⱪning ⱨǝmmisi: — Sulayman padixaⱨ yaxisun! — dǝp towlaxti.
40 Sau đó, mọi người theo Sa-lô-môn trở về. Họ thổi sáo, hân hoan reo hò vang dậy cả đất.
Hǝlⱪning ⱨǝmmisi uning kǝynidin ǝgixip, sunay qelip zor xadliⱪ bilǝn yǝr yerilƣudǝk tǝntǝnǝ ⱪilixti.
41 A-đô-ni-gia và đoàn tân khách nghe tiếng hò reo khi vừa dự tiệc xong. Tướng Giô-áp nghe tiếng kèn liền hỏi: “Trong thành có gì xảy ra ồn ào như thế?”
Əmdi Adoniya wǝ uning bilǝn jǝm bolƣan meⱨmanlar ƣizalinip qiⱪⱪanda, xuni anglidi. Yoab kanay awazini angliƣanda: — Nemixⱪa xǝⱨǝrdǝ xunqǝ ⱪiyⱪas-sürǝn selinidu? — dǝp soridi.
42 Vừa lúc đó Giô-na-than, con Thầy Tế lễ A-bia-tha đến. A-đô-ni-gia liền bảo: “Vào ngay. Anh là một dũng sĩ chắc đem tin tốt đẹp.”
U tehi sɵzini tügǝtmǝyla, mana Abiyatar kaⱨinning oƣli Yonatan kǝldi. Adoniya uningƣa: — Kirgin, ⱪǝysǝr adǝmsǝn, qoⱪum bizgǝ hux hǝwǝr elip kǝlding, — dedi.
43 Giô-na-than nói: “Vua Đa-vít đã truyền ngôi cho Sa-lô-môn!
Yonatan Adoniyaƣa jawab berip: — Undaⱪ ǝmǝs! Ƣojimiz Dawut padixaⱨ Sulaymanni padixaⱨ ⱪildi!
44 Chính vua đã bảo Thầy Tế lễ Xa-đốc, Tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa, và Phê-lết đỡ Sa-lô-môn lên cưỡi con la của vua.
Wǝ padixaⱨ ɵzi uningƣa Zadok kaⱨinni, Natan pǝyƣǝmbǝrni, Yǝⱨoyadaning oƣli Binayani wǝ Kǝrǝtiylǝr bilǝn Pǝlǝtiylǝrni ⱨǝmraⱨ ⱪilip ǝwitip, uni padixaⱨning ⱪeqiriƣa mindürdi;
45 Thầy Tế lễ Xa-đốc và Tiên tri Na-than đã xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua tại Ghi-hôn. Sau đó, họ trở về ăn mừng, làm náo động cả thành. Đó là tiếng vang các ông đã nghe.
andin Zadok kaⱨin bilǝn Natan pǝyƣǝmbǝr uni padixaⱨ boluxⱪa Giⱨonda mǝsiⱨ ⱪildi. Ular u yǝrdin qiⱪip xadliⱪ ⱪilip, pütkül xǝⱨǝrni ⱪiyⱪas-sürǝn bilǝn lǝrzigǝ saldi. Siz anglawatⱪan sada dǝl xudur.
46 Sa-lô-môn lên ngồi trên ngôi,
Uning üstigǝ Sulayman ⱨazir padixaⱨliⱪ tǝhtidǝ olturiwatidu.
47 còn các quần thần của vua đều đến mừng Vua Đa-vít rằng: ‘Cầu xin Đức Chúa Trời làm cho Sa-lô-môn nổi danh hơn cả vua, cho ngôi nước người lớn hơn ngôi nước vua.’ Vua vẫn ở trên giường đáp lễ:
Yǝnǝ kelip padixaⱨning hizmǝtkarliri kelip ƣojimiz Dawut padixaⱨⱪa: «Hudaliri Sulaymanning namini siliningkidin ǝwzǝl ⱪilip, tǝhtini siliningkidin uluƣ ⱪilƣay!» dǝp bǝht tilǝp mubarǝklǝxkǝ kelixti. Padixaⱨ ɵzi yatⱪan orunda sǝjdǝ ⱪildi
48 ‘Ca ngợi Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, vì ngày nay Ngài cho có một người ngồi trên ngôi ta, trong khi ta còn đây để được thấy tận mắt.’”
wǝ padixaⱨ: — «Bügün mening tǝhtimgǝ olturƣuqi birsini tǝyinligǝn, ɵz kɵzlirimgǝ xuni kɵrgüzgǝn Israilning Hudasi Pǝrwǝrdigar mubarǝklǝnsun!» — dedi — dedi.
49 Bấy giờ, Các tân khách của A-đô-ni-gia đều sợ hãi và bỏ chạy.
Xuni anglap Adoniyaning barliⱪ meⱨmanliri ⱨoduⱪup, ornidin ⱪopup ⱨǝrbiri ɵz yoliƣa kǝtti.
50 A-đô-ni-gia vì sợ Sa-lô-môn giết, nên chạy vào nắm lấy sừng bàn thờ.
Adoniya bolsa Sulaymandin ⱪorⱪup, ornidin ⱪopup, [ibadǝt qediriƣa] berip ⱪurbangaⱨning münggüzlirini tutti.
51 Người ta báo cho Sa-lô-môn hay: “A-đô-ni-gia vì sợ Vua Sa-lô-môn nên đã chạy đến nắm sừng bàn thờ và cầu xin: ‘Hôm nay vua vui lòng thề sẽ không giết tôi bằng gươm.’”
Sulaymanƣa xundaⱪ hǝwǝr berilip: — «Adoniya Sulayman padixaⱨtin ⱪorⱪidu; qünki mana, u ⱪurbangaⱨning münggüzlirini tutup turup: — «Sulayman padixaⱨ bügün manga xuni ⱪǝsǝm ⱪilsunki, u ɵz ⱪulini ⱪiliq bilǝn ɵltürmǝslikkǝ wǝdǝ ⱪilƣay» dedi», — deyildi.
52 Sa-lô-môn nói: “Nếu anh ta chứng tỏ là một người xứng đáng, một sợi tóc cũng không mất; nhưng nếu làm điều sai trái, anh ta sẽ chết.”
Sulayman: — U durus adǝm bolsa bexidin bir tal qaq yǝrgǝ qüxmǝydu. Lekin uningda rǝzillik tepilsa, ɵlidu, dedi.
53 Vua Sa-lô-môn sai người đem A-đô-ni-gia ra khỏi bàn thờ. Ông đến cúi lạy trước mặt Vua Sa-lô-môn rồi vua bảo: “Anh về nhà đi.”
Sulayman padixaⱨ adǝm ǝwitip uni ⱪurbangaⱨdin elip kǝldi. U kelip Sulayman padixaⱨning aldida engixip tǝzim ⱪildi. Sulayman uningƣa: — Ɵz ɵyünggǝ kǝtkin, — dedi.

< I Các Vua 1 >