< Nǝⱨǝmiya 9 >

1 Xu ayning yigirmǝ tɵtinqi küni Israillar roza tutup, boz kiyip, üsti-bexiƣa topa qaqⱪan ⱨalda yiƣildi;
Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ bụi đất.
2 Israil nǝsli ɵzlirini barliⱪ yat taipilǝrdin ayrip qiⱪti, andin ɵrǝ turup ɵzlirining gunaⱨlirini wǝ ata-bowilirining ɵtküzgǝn ⱪǝbiⱨliklirini etirap ⱪildi.
Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự gian ác của tổ phụ mình.
3 Ular xu künning tɵttin biridǝ ɵz yeridǝ turup ɵzlirining Hudasi bolƣan Pǝrwǝrdigarning Tǝwrat-ⱪanun kitabini oⱪudi; künning yǝnǝ tɵttin biridǝ ɵzlirining gunaⱨlirini tonudi wǝ Hudasi bolƣan Pǝrwǝrdigarƣa sǝjdǝ ⱪildi.
Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lâu đến phần tư ngày: trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ.
4 Lawiylardin Yǝxua, Bani, Kadmiyǝl, Xǝbaniya, Bunni, Xǝrǝbiya, Bani wǝ Kenanilar pǝlǝmpǝylǝrdǝ turup ɵzlirining Hudasi bolƣan Pǝrwǝrdigarƣa ünlük awaz bilǝn nida ⱪildi.
Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
5 Lawiy Yǝxua, Kadmiyǝl, Bani, Ⱨaxabiniya, Xǝrǝbiya, Hodiya, Xǝbaniya wǝ Pitaⱨiyalar: «Ornunglardin ⱪopup Hudayinglar bolƣan Pǝrwǝrdigarƣa ǝbǝdil’ǝbǝdgiqǝ tǝxǝkkür-mǝdⱨiyǝ ⱪayturunglar» — dedi wǝ mundaⱪ [dua-ⱨǝmdusana uⱪudi]: — «[I Huda], insanlar Sening xanu-xǝwkǝtlik namingni uluƣlisun! Bǝrⱨǝⱪ, barliⱪ tǝxǝkkür-mǝdⱨiyilǝr namingƣa yetixmǝydu!
Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Đáng ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi.
6 Sǝn, pǝⱪǝt Sǝnla Pǝrwǝrdigardursǝn; asmanlarni, asmanlarning asminini wǝ ularning barliⱪ ⱪoxunlirini, yǝr wǝ yǝr üstidiki ⱨǝmmini, dengizlar wǝ ular iqidiki ⱨǝmmini yaratⱪuqidursǝn; Sǝn bularning ⱨǝmmisigǝ ⱨayatliⱪ bǝrgüqisǝn, asmanlarning barliⱪ ⱪoxunliri Sanga sǝjdǝ ⱪilƣuqidur.
Oâi! chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa.
7 Sǝn bǝrⱨǝⱪ Pǝrwǝrdigar Hudadursǝn, Sǝn Abramni talliding, uni Kaldiyǝning Ur xǝⱨiridin elip qiⱪting, uningƣa Ibraⱨim degǝn namni ata ⱪilding.
Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà đã chọn Aùp-ram, đem người ra khỏi U-rơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Aùp-ra-ham.
8 Sǝn uning ⱪǝlbining Ɵzünggǝ sadiⱪ-ixǝnqilik ikǝnlikini kɵrüp, uning bilǝn ǝⱨdǝ tüzüp Ⱪanaaniylarning, Ⱨittiylarning, Amoriylarning, Pǝrizziylǝrning, Yǝbusiylarning wǝ Girgaxiylarning zeminini uning ǝwladliriƣa tǝⱪdim ⱪilip berixni wǝdǝ ⱪilding; Sǝn ⱨǝⱪⱪaniy bolƣanliⱪingdin, sɵzliringni ixⱪa axurdung.
Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình.
9 Sǝn ata-bowilirimizning Misirda jǝbir-zulum qekiwatⱪanliⱪini kɵrüp, ularning Ⱪizil dengiz boyidiki nalisiƣa ⱪulaⱪ salding.
Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu la của chúng tại bên Biển đỏ,
10 Sǝn Misirliⱪlarning ularƣa ⱪandaⱪ yoƣanqiliⱪ bilǝn muamilǝ ⱪilƣanliⱪini bilginingdin keyin Pirǝwn, uning barliⱪ hizmǝtqiliri wǝ uning zeminidiki barliⱪ hǝlⱪⱪǝ mɵjizilik alamǝt wǝ karamǝtlǝrni kɵrsitip, Ɵzüng üqün bügüngǝ ⱪǝdǝr saⱪlinip keliwatⱪan uluƣ bir nam-xɵⱨrǝtni tikliding.
làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự của nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng, và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay.
11 Sǝn yǝnǝ [ata-bowilirimiz] aldida dengizni bɵlüp, ular dengizning otturisidin ⱪuruⱪ yǝr üstidin mengip ɵtti; ularni ⱪoƣlap kǝlgǝnlǝrni qongⱪur dengiz tegigǝ taxlap ƣǝrⱪ ⱪiliwǝtting, huddi juxⱪunluⱪ dengizƣa taxlanƣan taxtǝk ƣǝrⱪ ⱪilding.
Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá trong nước lớn.
12 Sǝn ularni kündüzi bulut tüwrüki bilǝn, keqisi ot tüwrüki bilǝn yetǝkliding, bular arⱪiliⱪ ularning mangidiƣan yolini yorutup bǝrding.
Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa, để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo.
13 Sǝn Sinay teƣiƣa qüxüp, asmanda turup ular bilǝn sɵzlixip, ularƣa toƣra ⱨɵküm, ⱨǝⱪiⱪiy ixǝnqlik ⱪanunlar, yahxi bǝlgilimilǝr wǝ ǝmrlǝrni ata ⱪilding.
Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-na-i, phán với chúng từ trên trời, ban cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chân thật, và những qui tắc cùng điều răn tốt lành.
14 Sǝn ularƣa Ɵzüngning muⱪǝddǝs xabat kününgni tonuttung, ⱪulung Musaning wastisi bilǝn ularƣa ǝmrlǝr, bǝlgilimilǝr wǝ Tǝwrat ⱪanunini tapiliding.
Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp.
15 Sǝn ularƣa aq ⱪalƣanda yesun dǝp asmandin nan, ussiƣanda iqsun dǝp ⱪoram taxtin su qiⱪirip bǝrding; Sǝn ularƣa berixkǝ ⱪolungni kɵtürüp ⱪǝsǝm ⱪilƣan ǝxu zeminni kirip igilǝnglar, deding.
Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho chúng.
16 Lekin ular, yǝni ata-bowilirimiz mǝƣrulinip, boyni ⱪattiⱪliⱪ ⱪilip ǝmrliringgǝ ⱪulaⱪ salmidi.
Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh cứng cổ mình, không nghe các điều răn của Chúa,
17 Ular itaǝt ⱪilixni rǝt ⱪildi, Sening ularning otturisida yaratⱪan karamǝt mɵjiziliringni yad ǝtmidi, bǝlki boyni ⱪattiⱪliⱪ ⱪildi, asiyliⱪ ⱪilip, ⱪul ⱪilinƣan jayƣa kǝtmǝkqi bolup, ɵz aldiƣa yolbaxqi tiklidi. Lekin Sǝn ǝpuqan, meⱨir-xǝpⱪǝtlik ⱨǝm rǝⱨimdil, asan ƣǝzǝplǝnmǝydiƣan, zor meⱨir-muⱨǝbbǝtlik Tǝngridursǝn; xunga Sǝn ularni taxliwǝtmiding.
chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Đức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ chúng.
18 Ular ⱨǝtta tehi ɵzlirigǝ bir ⱪuyma mozayni yasap: «Mana bu silǝrni Misirdin elip qiⱪⱪan ilaⱨ!» degǝn waⱪtida ⱨǝm ⱪattiⱪ kupurluⱪ ⱪilƣinida,
Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nầy là thần đã dẫn các ngươi lên khỏi Ê-díp-tô, và chọc cho Chúa giận nhiều,
19 Sǝn tolimu rǝⱨimdil bolƣanliⱪing üqün ularni yǝnila bayawanda taxlap ⱪoymiding; kündüzi bulut tüwrüki ularning üstidin neri kǝtmǝy, ularƣa yol baxlidi; keqisi ot tüwrükimu ulardin neri kǝtmǝy, ularƣa nur berip, mangidiƣan yolini kɵrsǝtti.
thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi.
20 Sǝn Ɵzüngning meⱨribanǝ Roⱨingni qüxürüp ularƣa tǝlim bǝrding; Sǝn ularning yeyixi üqün «manna»ni ayimiding, ussuzluⱪini ⱪandurux üqün suni bǝrding.
Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng, không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát.
21 Sǝn ularni bayawanda ⱪiriⱪ yil ⱪamdap kǝlding; ⱨeqnemisi kǝm bolmidi, kiyimliri konirimidi, putlirimu ixximidi.
Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chân chúng chẳng phù lên.
22 Sǝn padixaⱨliⱪlar wǝ taipilǝrni ularning ⱪoliƣa bǝrding, bularni ularning zeminiƣa qegralar ⱪilip bǝrding. Xuning bilǝn ular Siⱨon padixaⱨning zeminini, Ⱨǝxbonning padixaⱨining zeminini wǝ Baxan padixaⱨi Ogning zeminini igilidi.
Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của Oùc, vua Ba-san.
23 Sǝn ularning pǝrzǝnt-ǝwladlirini asmandiki yultuzlardǝk awuttung; Sǝn ularni ata-bowiliriƣa: «Silǝr bu zeminni igilǝxkǝ uningƣa kiringlar» dǝp tǝⱪdim ⱪilƣan zeminƣa baxlap kirding.
Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy.
24 Ularning ǝwladliri kirip u zeminni igilidi; Sǝn u zeminda turuwatⱪan Ⱪanaan aⱨalisini ularƣa beⱪindurdung ⱨǝm zemindiki padixaⱨlarni wǝ ularning ⱪǝbilǝ-ⱪowmlirini: «Silǝr ularƣa haliƣanqǝ muamilǝ ⱪilinglar» dǝp ularning ⱪoliƣa tapxurdung.
Vậy, con cháu chúng bèn vào và nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn.
25 Ular mustǝⱨkǝm xǝⱨǝrlǝrni, munbǝt yǝrlǝrni ixƣal ⱪilip, ⱨǝrhil esil buyumlarƣa tolƣan ɵylǝrgǝ, kolap ⱪoyulƣan ⱪuduⱪlarƣa, üzümzarliⱪlar, zǝytunluⱪlar wǝ intayin kɵp mewilik dǝrǝhlǝrgǝ igǝ boldi; yǝp-iqip sǝmrip, Sening zor meⱨribanliⱪingdin sɵyünüxti!
Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất mầu mỡ, được những nhà đầy các vật tốt lành, nhưng giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao của Chúa.
26 Lekin ular gǝdǝnkǝxlik ⱪilip Seningdin yüz ɵrüp, Tǝwrat ⱪanunungni arⱪisiƣa taxlidi, ularni yeningƣa yandurmaⱪ üqün agaⱨ-guwaⱨliⱪ yǝtküzgǝn pǝyƣǝmbǝrliringni ɵltürüp ǝxǝddiy kupurluⱪ ⱪildi.
Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay.
27 Xunga Sǝn ularni jǝbir-zulum salƣuqilarning ⱪoliƣa tapxurdung, dǝrwǝⱪǝ ular ularni ⱪiynidi; ular ⱪiynalƣan waⱪitlirida Sanga yalwuruxⱪanidi, Sǝn asmanlarda turup ularƣa ⱪulaⱪ salding, zor rǝⱨimdilliⱪing boyiqǝ ularƣa ⱪutⱪuzƣuqilarni ǝwǝtǝtting, ular bularni ǝzgüqilǝrning ⱪolidin ⱪutⱪuzatti.
Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng khỏi tay kẻ cừu địch mình.
28 Lekin ular aramliⱪⱪa erixkǝndin keyin yǝnǝ Sening aldingda rǝzillik ⱪilixⱪa baxliwidi, Sǝn ularni yǝnǝ düxmǝnlirining ⱪoliƣa tapxurdung, ular ularning üstidin ⱨɵkümranliⱪ ⱪildi; ular yǝnǝ Sening aldingda nalǝ-pǝryat ⱪilixiwidi, Sǝn asmanlarda turup ⱪulaⱪ selip, rǝⱨimdilliⱪliring boyiqǝ ularni yenix-yenixlap ⱪutⱪuzdung.
Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần.
29 Sǝn ularni Ɵzüngning Tǝwrat-ⱪanunungƣa ⱪaytixⱪa agaⱨlandurdung; lekin ular mǝƣrurlinip, ǝmrliringgǝ ⱪulaⱪ salmidi, ⱨɵkümliring aldida gunaⱨ ⱪildi (insan ⱨɵkümliringgǝ ǝmǝl ⱪilsa, ular xu sǝwǝbtin ⱨayatta bolidu). Ular jaⱨilliⱪ bilǝn boynini tolƣap, gǝdǝnkǝxlik ⱪilip sanga ⱪulaⱪ selixni rǝt ⱪildi.
Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống; chúng ở chấp nhất, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo.
30 Ularƣa uzun yil sǝwr-taⱪǝt ⱪilding, Roⱨing pǝyƣǝmbǝrliringning wastisi bilǝn agaⱨ-guwaⱨliⱪ bǝrgǝn bolsimu, ular yǝnila ⱪulaⱪ salmidi; xunga Sǝn ularni ⱨǝrⱪaysi ǝl-yurtlardiki taipilǝrning ⱪoliƣa tapxurdung.
Chúa dung thứ chúng nhiều năm và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng vào tay dân tộc của các xứ.
31 Ⱨalbuki, Sǝn zor rǝⱨimdilliⱪliring tüpǝylidin ularning nǝslini pütünlǝy ⱪurutuwǝtmiding ⱨǝm ularni taxliwǝtmiding; qünki Sǝn meⱨir-xǝpⱪǝtlik ⱨǝm rǝⱨimdil Tǝngridursǝn.
Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Đức Chúa Trời hay thương xót và nhân từ.
32 Əmdi aⱨ Hudayimiz, ǝⱨdǝngdǝ turup ɵzgǝrmǝs muⱨǝbbitingni kɵrsitidiƣan uluƣ, ⱪudrǝtlik wǝ dǝⱨxǝtlik Tǝngri, ǝmdi Seningdin bizning, padixaⱨlirimizning wǝ ǝmirlirimizning, kaⱨinlirimizning, pǝyƣǝmbǝrlirimizning, ata-bowilirimizning xundaⱪla Ɵzüngning barliⱪ hǝlⱪingning Asuriyǝ padixaⱨining zamanidin buyan bügüngiqǝ beximizƣa qüxkǝn barliⱪ azab-oⱪubǝtlǝrni kiqik ix dǝp ⱪarimasliⱪingni ɵtünimiz.
Vậy bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Đức Chúa Trời rất lớn rất quyền năng và đáng sợ, hằng giữ giao ước và sự nhân từ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.
33 Beximizƣa kǝlgǝn barliⱪ ixta Sǝn adilsǝn; qünki Sening ⱪilƣining ⱨǝⱪiⱪǝt boyiqǝ boldi, bizning ⱪilƣinimiz rǝzilliktur.
Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi hành cách chân thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác.
34 Padixaⱨlirimiz, ǝmirlirimiz, kaⱨinlirimiz bilǝn ata-bowilirimizning ⱨǝmmisi Sening Tǝwrat ⱪanunungƣa ǝmǝl ⱪilmay, ǝmrliringgǝ wǝ Sening ularƣa ispatlap bǝrgǝn agaⱨ-guwaⱨliⱪliringƣa ⱨeq ⱪulaⱪ salmidi.
Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi, không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng.
35 Ular Sǝn ularƣa muyǝssǝr ⱪilƣan padixaⱨliⱪta turuxtin, ularƣa ata ⱪilƣan zor mǝmurqiliⱪtin wǝ xuningdǝk ularning aldiƣa yayƣan bu kǝng munbǝt zemindiki turmuxtin bǝⱨrimǝn boluwatⱪan bolsimu, lekin ular Sening ibadǝt-hizmitingdǝ bolmidi yaki ɵzlirining rǝzil ⱪilmixliridin yanmidi.
Tại trong xứ của chúng, giữa điều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng, tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ.
36 Mana, biz bügün ⱪullarmiz! Sǝn mewisi bilǝn nazu-nemǝtliridin yeyixkǝ ata-bowilirimizƣa tǝⱪdim ⱪilip bǝrgǝn zeminda tursaⱪmu, biz mana uningda ⱪul bolup ⱪalduⱪ!
Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; này chúng tôi làm tôi trong xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi để ăn bông trái và thổ sản tốt tươi của nó.
37 [Zemin] Sǝn bizning gunaⱨlirimiz üqün bizni idarǝ ⱪilixⱪa bekitkǝn padixaⱨlarƣa mol mǝⱨsulatlirini berip turidu; ular bǝdǝnlirimizni ⱨǝm qarwa mallirimizni ɵz mǝyliqǝ baxⱪurup keliwatidu; biz zor dǝrd-ǝlǝmdǝ bolduⱪ».
Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đang bị hoạn nạn lớn.
38 «— Biz mana muxu barliⱪ ixlar tüpǝyli muⱪim bir ǝⱨdini tüzüp yezip qiⱪtuⱪ; ǝmirlirimiz, Lawiylirimiz bilǝn kaⱨinlirimiz buningƣa ɵz mɵⱨürlirini basti».
Dầu các sự này, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho.

< Nǝⱨǝmiya 9 >