< Markus 14 >
1 «Ɵtüp ketix» ⱨeyti wǝ «petir nan ⱨeyti»ƣa ikki kün ⱪalƣanidi. Bax kaⱨinlar wǝ Tǝwrat ustazliri uni ⱨiylǝ-nǝyrǝng bilǝn tutup ɵltürüxning qarisini izdǝytti.
Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ ăn bánh không men, các thầy tế lễ cả cùng các thầy thông giáo tìm mưu đặng bắt Đức Chúa Jêsus và giết đi.
2 Qünki ular: — Bu ix ⱨeyt-ayǝm künliri ⱪilinmisun. Bolmisa, hǝlⱪ arisida malimanqiliⱪ qiⱪixi mumkin, — deyixǝtti.
Vì họ nói rằng: Chẳng nên làm việc nầy trong này lễ, sợ sanh sự xôn xao trong dân chúng.
3 Əmdi u Bǝyt-Aniya yezisida, «Simon mahaw»ning ɵyidǝ dastihanda olturƣanda, aⱪ ⱪaxtexi xixidǝ naⱨayiti ⱪimmǝtlik sap sumbul ǝtirni kɵtürüp kǝlgǝn bir ayal uning yeniƣa kirdi. Ayal aⱪ ⱪaxtexi xexini qeⱪip, ǝtirni Əysaning bexiƣa ⱪuydi.
Đức Chúa Jêsus ở tại làng Bê-tha-ni, trong nhà Si-môn là kẻ phung. Ngài đang ngồi bàn ăn, có một người đàn bà vào, đem một cái bình bằng ngọc, đựng đầy dầu cam tòng thật rất quí giá, đập bể ra mà đổ dầu thơm trên đầu Đức Chúa Jêsus.
4 Lekin bǝzilǝr buningƣa hapa boluxup, bir-birigǝ: — Bu ǝtir nemǝ dǝp xundaⱪ israp ⱪilinidu?
Có vài người nổi giận nói cùng nhau rằng: Sao xài phí dầu thơm ấy như vậy?
5 Qünki bu ǝtirni üq yüz dinardin artuⱪ pulƣa satⱪili bolatti, puli kǝmbǝƣǝllǝrgǝ sǝdiⱪǝ ⱪilinsa bolmamti! — deyixti. Ular ayalƣa xundaⱪ tapa-tǝnǝ ⱪilƣili turdi.
Vì có thể bán dầu đó được hơn ba trăm đơ-ni-ê, mà bố thí cho kẻ khó khăn. Vậy, họ oán trách người.
6 Lekin Əysa ularƣa: — Uning ihtiyariƣa ⱪoyunglar, nemǝ dǝp uning kɵnglini aƣritisilǝr? U mening üstümgǝ yahxi ix ⱪildi.
Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để mặc người; sao các ngươi làm rầy người mà chi? Người đã làm một việc tốt cho ta.
7 Qünki kǝmbǝƣǝllǝr daim aranglarda bolidu, haliƣan waⱪitinglarda ularƣa hǝyr-sahawǝt kɵrsitǝlǝysilǝr; lekin mening aranglarda boluxum silǝrgǝ daim nesip boliwǝrmǝydu!
Vì các ngươi hằng có kẻ khó khăn ở cùng mình, khi nào muốn làm phước cho họ cũng được; nhưng các ngươi chẳng có ta ở luôn với đâu.
8 Ayal qamining yetixiqǝ ⱪildi; u mening bǝdinimning dǝpnǝ ⱪilinixiƣa aldin’ala tǝyyarliⱪ ⱪilip, uningƣa ǝtir-may ⱪuyup ⱪoydi.
Người đã làm điều mình có thể làm được, đã xức xác cho ta trước để chôn.
9 Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, bu hux hǝwǝr pütkül dunyaning ⱪǝyeridǝ jakarlansa, bu ayal ǝslinip, uning ⱪilƣan bu ixi tǝriplinidu, — dedi.
Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin Lành nầy được giảng ra, việc người đã làm cũng sẽ được nhắc lại để nhớ đến người.
10 Xu waⱪitta, on ikkiylǝndin biri bolƣan Yǝⱨuda Ixⱪariyot uni ularƣa tutup berix mǝⱪsitidǝ bax kaⱨinlarning aldiƣa bardi.
Bấy giờ, Giu-đa ỗch-ca-ri-ốt là một trong mười hai sứ đồ, đến nơi các thầy tế lễ cả, để nộp Đức Chúa Jêsus cho.
11 Ular buni anglap huxal bolup kǝtti wǝ uningƣa pul berixkǝ wǝdǝ ⱪilixti. Yǝⱨuda uni tutup berixkǝ muwapiⱪ pursǝt izdǝp yürǝtti.
họ vui lòng mà nghe và hứa cho nó tiền bạc; rồi Giu-đa tìm dịp tiện để nộp Ngài.
12 Petir nan ⱨeytining birinqi küni, yǝni ɵtüp ketix ⱨeytining ⱪurbanliⱪ [ⱪozisi] soyulidiƣan küni, muhlislar uningdin: — Ɵtüp ketix ⱨeytining [tamiⱪini] yeyixing üqün bizning ⱪǝyǝrgǝ berip tǝyyarliximizni halaysǝn? — dǝp soridi.
Ngày thứ nhất về lễ ăn bánh không men, là ngày giết chiên con làm lễ Vượt Qua, các môn đồ thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Thầy muốn chúng tôi đi dọn cho thầy ăn lễ Vượt Qua tại đâu?
13 U muhlisliridin ikkiylǝnni aldin mangƣuzup ularƣa: — Xǝⱨǝrgǝ kiringlar, u yǝrdǝ kozida su kɵtürüwalƣan bir ǝr kixi silǝrgǝ uqraydu. Uning kǝynidin menginglar.
Ngài sai hai môn đồ đi, và dặn rằng: Hãy vào thành, sẽ gặp một người xách vò nước; cứ theo sau,
14 U adǝm nǝgǝ kirsǝ xu ɵyning igisigǝ: «Ustaz: Muhlislirim bilǝn ɵtüp ketix ⱨeytining tamiⱪini yǝydiƣan meⱨmanhana ⱪǝyǝrdǝ?— dǝp sorawatidu» — dǝnglar.
hễ người vào nhà nào, các ngươi sẽ nói cùng chủ nhà ấy rằng: Thầy phán: Cái phòng ta sẽ dùng ăn lễ Vượt Qua với môn đồ ta ở đâu?
15 U silǝrni baxlap üstünki ⱪǝwǝttiki rǝtlǝngǝn sǝrǝmjanlaxturulƣan qong bir eƣiz ɵyni kɵrsitidu. Mana xu yǝrdǝ bizgǝ tǝyyarliⱪ ⱪilip turunglar, — dedi.
Chính kẻ đó sẽ chỉ cho các ngươi một cái phòng lớn trên lầu có đồ đạc sẵn sàng, hãy dọn tại đó cho chúng ta.
16 Muhlislar yolƣa qiⱪip xǝⱨǝrgǝ kirip, yoluⱪⱪan ixlarning ⱨǝmmisi u eytⱪandǝk boldi. Xu yǝrdǝ ular ɵtüp ketix ⱨeytining tamiⱪini tǝyyarlaxti.
Vậy, hai môn đồ đi ra mà vào thành, gặp mọi điều như lời Ngài đã phán, rồi dọn lễ Vượt Qua.
17 Kǝq kirgǝndǝ, u on ikkǝylǝn bilǝn ɵygǝ kǝldi.
Buổi chiều, Ngài đến với mười hai sứ đồ.
18 Ular dastihanda olturup ƣizalanƣanda Əysa: — Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, aranglardiki birǝylǝn, mǝn bilǝn billǝ ƣizaliniwatⱪan birsi manga satⱪunluⱪ ⱪilidu, — dedi.
Đang ngồi ăn, Đức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong vòng các ngươi có một kẻ ngồi ăn cùng ta, sẽ phản ta.
19 Ular [bu sɵzdin] ⱪayƣuƣa qɵmüp, bir-birlǝp uningdin: — Mǝn ǝmǝstimǝn? — dǝp soridi. Yǝnǝ birsi: — Mǝn ǝmǝstimǝn? — dedi.
Các môn đồ bèn buồn rầu lắm, cứ lần lượt mà thưa cùng Ngài rằng: Có phải tôi chăng?
20 Lekin u ularƣa: — [Xu kixi] on ikkǝylǝnning biri, yǝni ⱪolidiki nanni mǝn bilǝn tǝng tawaⱪⱪa tɵgürgüqi bolidu.
Ngài đáp rằng: Aáy là một trong mười hai người, là người thò tay vào mâm cùng ta.
21 Insan’oƣli dǝrwǝⱪǝ ɵzi toƣrisida [muⱪǝddǝs yazmilarda] pütülgǝndǝk alǝmdin ketidu; biraⱪ Insan’oƣlining tutup berilixigǝ wasitiqi bolƣan adǝmning ⱨaliƣa way! U adǝm tuƣulmiƣan bolsa uningƣa yahsi bolatti! — dedi.
Vì Con người đi, y như lời đã chép về Ngài; song khốn cho kẻ phản Con người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn.
22 Ular ƣizaliniwatⱪanda, Əysa bir nanni ⱪoliƣa elip tǝxǝkkür eytⱪandin keyin, uni oxtup, muhlisliriƣa ülǝxtürüp bǝrdi wǝ: — Elinglar, bu mening tenim, — dedi.
Khi đang ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn, đoạn bẻ ra trao cho các môn đồ, mà phán rằng: Hãy lấy, nầy là thân thể ta.
23 Andin u ⱪoliƣa jamni elip [Hudaƣa] tǝxǝkkür eytⱪandin keyin, uni muhlisliriƣa sundi. Ularning ⱨǝmmisi uningdin iqixti.
Ngài lại cầm chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đồ, và ai nấy đều uống.
24 U ularƣa: — Bu mening ⱪenim, nurƣun adǝmlǝr üqün tɵkülidiƣan, yengi ǝⱨdini tüzidiƣan ⱪenimdur.
Ngài phán rằng: Nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đổ ra cho nhiều người.
25 Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, Hudaning padixaⱨliⱪida yengidin xarabtin iqidiƣan küngiqǝ, üzüm telining xǝrbitini ⱨǝrgiz iqmǝymǝn, — dedi.
Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày ta sẽ uống trái nho mới trong nước Đức Chúa Trời.
26 Ular bir mǝdⱨiyǝ küyini eytⱪandin keyin talaƣa qiⱪip, Zǝytun teƣiƣa ⱪarap ketixti.
Khi đã hát thơ thánh rồi, Chúa và môn đồ đi ra đặng lên núi ô-li-ve.
27 Andin Əysa ularƣa: Silǝr ⱨǝmminglar tandurulup putlixisilǝr, qünki [muⱪǝddǝs yazmilarda]: «Mǝn padiqini uruwetimǝn, Ⱪoylar patiparaⱪ bolup tarⱪitiwetilidu» dǝp pütülgǝn.
Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Hết thảy các ngươi sẽ gặp dịp vấp phạm; vì có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì bầy chiên sẽ tan lạc.
28 Lekin mǝn tirilgǝndin keyin Galiliyǝgǝ silǝrdin burun barimǝn, — dedi.
Nhưng khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi.
29 Lekin Petrus uningƣa: — Ⱨǝmmǝylǝn tandurulup putlaxsimu, mǝn ⱨǝrgiz putlaxmaymǝn, dedi.
Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, nhưng tôi chẳng hề làm vậy.
30 Əysa uningƣa: — Mǝn sanga bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, bügün, yǝni bügün keqǝ horaz ikki ⱪetim qilliƣuqǝ, sǝn mǝndin üq ⱪetim tanisǝn, — dedi.
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay, cũng trong đêm nay, trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần.
31 Lekin Petrus tehimu ⱪǝt’iylik bilǝn uningƣa: — Sǝn bilǝn billǝ ɵlidiƣan ix kerǝk bolsimu, sǝndin ⱨǝrgiz tanmaymǝn, — dedi. Ⱪalƣan ⱨǝmmisimu xundaⱪ deyixti.
Nhưng Phi-e-rơ lại thưa cách quả quyết hơn rằng: Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu. Hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như vậy.
32 Andin ular Getsimanǝ degǝn bir jayƣa kǝldi. U muhlislarƣa: — Mǝn dua-tilawǝt ⱪilip kǝlgüqǝ, muxu yǝrdǝ olturup turunglar, dedi.
Kế đó, đi đến một nơi kia, gọi là Ghết-sê-ma-nê, Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện.
33 U Petrus, Yaⱪup wǝ Yuⱨannani birgǝ elip mangdi wǝ sür besip, roⱨ-ⱪǝlbidǝ tolimu pǝrixan boluxⱪa baxlidi.
Ngài bèn đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não.
34 U ularƣa: — Jenim ɵlidiƣandǝk bǝkmu azablanmaⱪta. Silǝr bu yǝrdǝ ⱪelip, oyƣaⱪ turunglar, — dedi.
Ngài phán cùng ba người rằng: Linh-hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức.
35 U sǝl neriraⱪ berip, ɵzini yǝrgǝ etip düm yatti wǝ mumkin bolsa, u dǝⱪiⱪining ɵz bexiƣa qüxmǝy ɵtüp ketixi üqün dua ⱪilip:
Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng: nếu có thể được, xin giờ nầy qua khỏi mình.
36 — I Abba Ata, Sanga ⱨǝmmǝ ix mumkindur; bu ⱪǝdǝⱨni mǝndin ɵtküzüwǝtkǝysǝn! Lekin bu ix mǝn haliƣandǝk ǝmǝs, sǝn haliƣandǝk bolsun, — dedi.
Ngài rằng: A-ba lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn.
37 U [üqǝylǝnning] yeniƣa ⱪaytip kǝlginidǝ, ularning uhlap ⱪalƣanliⱪini kɵrüp, Petrusⱪa: — Əy Simon, uhlawatamsǝn?! Bir saǝtmu oyƣaⱪ turalmidingmu?!
Rồi Ngài trở lại, thấy ba người ngủ; bèn phán cùng Phi-e-rơ rằng: Si-môn, ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao?
38 Eziⱪturuluxtin saⱪlinix üqün, oyƣaⱪ turup dua ⱪilinglar. Roⱨ pidakar bolsimu, lekin kixining ǝtliri ajizdur, — dedi.
Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.
39 Andin u yǝnǝ berip, ohxax sɵzlǝr bilǝn ⱪaytidin dua ⱪildi.
Ngài lại đi lần nữa, và cầu nguyện, y như lời trước.
40 U ularning yeniƣa ⱪaytip kǝlginidǝ, ularning yǝnǝ uhlap ⱪalƣanliⱪini kɵrdi, qünki ularning kɵzliri uyⱪuƣa ilinƣanidi. Ular uningƣa nemǝ deyixini bilmǝy ⱪaldi.
Ngài trở lại, thấy môn đồ còn ngủ, vì con mắt đã đừ quá; và không biết trả lời cùng Ngài thể nào.
41 U üqinqi ⱪetim ularning yeniƣa ⱪaytip ularƣa: — Silǝr tehiqǝ uhlawatamsilǝr, tehiqǝ dǝm eliwatamsilǝr? Əmdi boldi bǝs! Waⱪit-saiti kǝldi; mana, Insan’oƣli gunaⱨkarlarning ⱪoliƣa tapxuruldi!
Ngài trở lại lần thứ ba, phán cùng môn đồ rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! thôi, giờ đã tới rồi; nầy, Con người hầu bị nộp trong tay kẻ có tội.
42 Ⱪopunglar, ketǝyli; mana, manga satⱪunluⱪ ⱪilidiƣan kixi yeⱪin kǝldi! — dedi.
Hãy chờ dậy, đi hè; kìa, đứa phản ta đã đến gần.
43 Wǝ xu dǝⱪiⱪidǝ, uning sɵzi tehi tügimǝyla, mana, on ikkǝylǝndin biri bolƣan Yǝⱨuda kǝldi; uning yenida bax kaⱨinlar, Tǝwrat ustazliri wǝ aⱪsaⱪallar tǝripidin ǝwǝtilgǝn ⱪiliq-toⱪmaⱪlarni kɵtürgǝn zor bir top adǝm bar idi.
Ngài đang còn phán, tức thì Giu-đa, là một trong mười hai sứ đồ thoạt đến với một toán đông cầm gươm và gậy, bởi các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão phái đến.
44 Uningƣa satⱪunluⱪ ⱪilƣuqi ular bilǝn alliburun ixarǝtni bekitip: «Mǝn kimni sɵysǝm, u dǝl xudur. Silǝr uni tutup, yalap elip ketinglar» dǝp kelixkǝnidi.
Vả, đứa phản Ngài đã cho chúng dấu hiệu nầy: Hễ tôi hôn ai, ấy là người đó; hãy bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.
45 U kelip udul [Əysaning] aldiƣa berip: — Ustaz, ustaz! — dǝp uni sɵyüp kǝtti.
Vậy, khi Giu-đa đến rồi, liền lại gần Ngài mà nói rằng: Lạy thầy! Rồi nó hôn Ngài.
46 Ular uningƣa ⱪol selip, uni tutⱪun ⱪildi.
Chúng bèn tra tay bắt Đức Chúa Jêsus.
47 Wǝ uning yenida turƣanlardin birǝylǝn ⱪiliqini suƣurup, bax kaⱨinning qakiriƣa uruwidi, uning ⱪuliⱪini xilip qüxürüwǝtti.
Có một người trong những kẻ ở đó rút gươm ra, đánh một đứa đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chém đứt tai đi.
48 Əysa jawabǝn ularƣa: — Bir ⱪaraⱪqini tutidiƣandǝk ⱪiliq-toⱪmaⱪlarni kɵtürüp meni tutⱪili kǝpsilǝrƣu?
Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến bắt ta như ta là kẻ trộm cướp.
49 Mǝn ⱨǝr küni ibadǝthana ⱨoylilirida silǝr bilǝn billǝ bolup tǝlim berǝttim, lekin silǝr u qaƣda meni tutmidinglar. Lekin bu ixlarning yüz berixi muⱪǝddǝs yazmilarda aldin pütülgǝnlǝrning ǝmǝlgǝ axuruluxi üqün boldi, — dedi.
Ta hằng ngày ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ, mà các ngươi không bắt ta; nhưng điều ấy xảy đến, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm.
50 Bu qaƣda, ⱨǝmmǝylǝn uni taxlap ⱪeqip ketixti.
Bấy giờ, mọi người đều bỏ Ngài và trốn đi cả.
51 Pǝⱪǝt uqisiƣa kanap rǝht yepinqaⱪliwalƣan bir yigit uning kǝynidin ǝgixip mangdi. Yax ǝskǝrlǝr uni tutuweliwidi,
Có một người trẻ tuổi kia theo Ngài, chỉ có cái khăn bằng gai trùm mình; chúng bắt người.
52 lekin u kanap rǝhttin boxinip, yalingaq peti ulardin ⱪeqip kǝtti.
Nhưng người bỏ khăn lại, ở truồng chạy trốn khỏi tay chúng.
53 Əmdi ular Əysani bax kaⱨinning aldiƣa elip berixti. Bax kaⱨinlar, barliⱪ aⱪsaⱪallar bilǝn Tǝwrat ustazlirimu u yǝrgǝ uning yeniƣa yiƣildi.
Chúng điệu Đức Chúa Jêsus đến nơi thầy cả thượng phẩm, có hết thảy thầy tế lễ cả, trưởng lão, và thầy thông giáo nhóm họp tại đó.
54 Petrus uningƣa taki bax kaⱨinning sarayidiki ⱨoylining iqigiqǝ yiraⱪtin ǝgixip kǝldi; u ⱪarawullar bilǝn billǝ otning nurida otsinip olturdi.
Phi-e-rơ theo sau Ngài xa xa, cho đến nơi sân trong của thầy cả thượng phẩm; rồi ngồi với quân lính gần đống lửa mà sưởi.
55 Bax kaⱨinlar wǝ pütün aliy kengǝxmǝ ǝzaliri Əysani ɵlümgǝ mǝⱨkum ⱪilix üqün, guwaⱨ-ispat izdidi, ǝmma tapalmidi.
Vả, các thầy tế lễ cả, cùng cả tòa công luận đều tìm chứng gì để nghịch cùng Đức Chúa Jêsus đặng giết Ngài, song không kiếm được chi hết.
56 Qünki nurƣun kixilǝr uni ǝrz ⱪilip yalƣan guwaⱨqiliⱪ bǝrgǝn bolsimu, ularning guwaⱨliⱪliri bir-birigǝ udul kǝlmǝytti.
Vì có nhiều kẻ làm chứng dối nghịch cùng Ngài; nhưng lời họ khai chẳng hiệp nhau.
57 Bǝzi adǝmlǝr ornidin turup, uning üstidin ǝrz ⱪilip yalƣan guwaⱨliⱪ berip:
Bấy giờ có mấy người đứng lên làm chứng dối nghịch cùng Ngài rằng:
58 — Biz uning: «Insan ⱪoli bilǝn yasalƣan bu ibadǝthanini buzup taxlap, insan ⱪoli bilǝn yasalmiƣan baxⱪa bir ibadǝthanini üq kün iqidǝ yasap qiⱪimǝn» degǝnlikini angliduⱪ, — dedi.
Chúng tôi có nghe người nói: Ta sẽ phá đền thờ nầy bởi tay người ta cất lên, khỏi ba ngày, ta sẽ cất một đền thờ khác không phải bởi tay người ta cất.
59 Ⱨǝtta ularning bu ⱨǝⱪtiki guwaⱨliⱪlirimu bir-birigǝ mas kǝlmidi.
Song về điều nầy, lời chứng của họ cũng chẳng hiệp nhau nữa.
60 Andin bax kaⱨin ⱨǝmmǝylǝnning aldida ornidin turup, Əysadin: — Ⱪeni, jawab bǝrmǝmsǝn? Bular sening üstüngdin zadi ⱪandaⱪ guwaⱨliⱪlarni beriwatidu? — dǝp soridi.
Khi ấy, thầy cả thượng phẩm đứng dậy giữa hội đồng, tra hỏi Đức Chúa Jêsus mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết về những điều các kẻ nầy cáo ngươi sao?
61 Lekin Əysa xük turup, ⱨeqⱪandaⱪ jawab bǝrmidi. Bax kaⱨin uni ⱪistap yǝnǝ uningdin: — Sǝn Mubarǝk Bolƣuqining Oƣli Mǝsiⱨmusǝn? — dǝp soridi.
Nhưng Đức Chúa Jêsus làm thinh, không trả lời chi hết. Thầy cả thượng phẩm lại hỏi: Aáy chính ngươi là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải không?
62 Xundaⱪ, mǝn ɵzüm, — dedi Əysa, — wǝ silǝr keyin Insan’oƣlining Ⱪudrǝt Igisining ong yenida olturidiƣanliⱪini wǝ asmandiki bulutlar bilǝn kelidiƣanliⱪini kɵrisilǝr.
Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta chính phải đó; các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự giữa đám mây trên trời mà đến.
63 Xuning bilǝn bax kaⱨin tonlirini yirtip taxlap: — Əmdi baxⱪa ⱨǝrⱪandaⱪ guwaⱨqining nemǝ ⱨajiti?
Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà rằng: Chúng ta có cần kiếm chứng cớ khác nữa làm chi?
64 Ɵzünglar bu kupurluⱪni anglidinglar! Əmdi buningƣa nemǝ dǝysilǝr? — dedi. Ularning ⱨǝmmisi u ɵlüm jazasiƣa buyrulsun, dǝp ⱨɵküm qiⱪirixti.
Các ngươi có nghe lời lộng ngôn chăng? Các ngươi nghĩ thế nào: Ai nấy đều đoán Ngài đáng chết.
65 Andin bǝziliri uningƣa tükürüxkǝ baxlidi, yǝnǝ uning kɵzlirini tengip, muxtlap: «Ⱪeni, [pǝyƣǝmbǝrqilik ⱪilip] bexarǝt berǝ!» deyixti. Ⱪarawullarmu uni xapilaⱪ bilǝn kaqatlidi.
Có kẻ nhổ trên Ngài, đậy mặt Ngài lại, đấm Ngài, và nói với Ngài rằng: Hãy nói tiên tri đi! Các lính canh lấy gậy đánh Ngài.
66 Petrus sarayning tɵwǝnki ⱨoylisida turƣanda, bax kaⱨinning dedǝkliridin biri kelip,
Phi-e-rơ đang ở dưới nơi sân, có một đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm đến,
67 issinip olturƣan Petrusni kɵrüp, uningƣa tikilip ⱪarap: — Sǝnmu Nasarǝtlik Əysa bilǝn billǝ idingƣu, — dedi.
thấy Phi-e-rơ đang sưởi, ngó người mà rằng: ngươi trước cũng ở với Jêsus Na-xa-rét!
68 Lekin u tenip: — Sening nemǝ dǝwatⱪanliⱪingni bilmidim ⱨǝm qüxǝnmidim, — dedi-dǝ, taxⱪiriƣa, dǝrwazining aywaniƣa qiⱪip turdi. Xu ǝsnada horaz bir qillidi.
Nhưng người chối rằng: Ta không biết, ta không hiểu ngươi nói chi. Đoạn, người bước ra tiền đường, thì gà gáy.
69 Uni yǝnǝ kɵrgǝn ⱨeliⱪi dedǝk yǝnǝ u yǝrdǝ turƣanlarƣa: — Bu ulardin biri, — degili turdi.
Đầy tớ gái đó thấy người, lại nói cùng những người ở đó rằng: Người nầy cũng là bọn đó.
70 [Petrus] yǝnǝ inkar ⱪildi. Bir’azdin keyin, u yǝrdǝ turƣanlar Petrusⱪa yǝnǝ: — Bǝrⱨǝⱪ, sǝn ularning birisǝn. Qünki sǝnmu Galiliyǝlik ikǝnsǝnƣu?! — deyixti.
Nhưng người lại chối một lần nữa. Khỏi một chặp, những kẻ đứng đó nói cùng Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng là bọn đó, vì ngươi là người Ga-li-lê.
71 Lekin u ⱪattiⱪ ⱪarƣaxlar bilǝn ⱪǝsǝm ⱪilip: — Silǝr dǝwatⱪan ⱨeliⱪi adǝmni tonumaymǝn! — dedi.
Người bèn rủa mà thề rằng: Ta chẳng hề quen biết với người mà các ngươi nói đó!
72 Dǝl xu qaƣda horaz ikkinqi ⱪetim qillidi. Petrus Əysaning ɵzigǝ: «Horaz ikki ⱪetim qilliƣuqǝ, sǝn mǝndin üq ⱪetim tanisǝn» degǝn sɵzini esigǝ aldi; wǝ bularni oylap yiƣlap kǝtti.
Tức thì gà gáy lần thứ hai; Phi-e-rơ bèn nhớ lại lời Đức Chúa Jêsus đã phán rằng: Trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần. Người tưởng đến thì khóc.