< Markus 14 >

1 «Ɵtüp ketix» ⱨeyti wǝ «petir nan ⱨeyti»ƣa ikki kün ⱪalƣanidi. Bax kaⱨinlar wǝ Tǝwrat ustazliri uni ⱨiylǝ-nǝyrǝng bilǝn tutup ɵltürüxning qarisini izdǝytti.
Còn hai ngày nữa đến lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men—các thầy trưởng tế và thầy dạy luật tìm cơ hội bắt giữ Chúa Giê-xu và bí mật giết.
2 Qünki ular: — Bu ix ⱨeyt-ayǝm künliri ⱪilinmisun. Bolmisa, hǝlⱪ arisida malimanqiliⱪ qiⱪixi mumkin, — deyixǝtti.
Họ cùng đồng ý: “Không làm trong ngày lễ Vượt Qua, để khỏi gây náo động trong dân chúng.”
3 Əmdi u Bǝyt-Aniya yezisida, «Simon mahaw»ning ɵyidǝ dastihanda olturƣanda, aⱪ ⱪaxtexi xixidǝ naⱨayiti ⱪimmǝtlik sap sumbul ǝtirni kɵtürüp kǝlgǝn bir ayal uning yeniƣa kirdi. Ayal aⱪ ⱪaxtexi xexini qeⱪip, ǝtirni Əysaning bexiƣa ⱪuydi.
Lúc ấy, Chúa Giê-xu đến nhà Si-môn, một người phong hủi tại Bê-tha-ni. Giữa bữa ăn, một phụ nữ bước vào, mang theo bình ngọc thạch đựng dầu cam tùng đắt tiền. Bà mở nắp đổ dầu trên đầu Ngài.
4 Lekin bǝzilǝr buningƣa hapa boluxup, bir-birigǝ: — Bu ǝtir nemǝ dǝp xundaⱪ israp ⱪilinidu?
Có người trông thấy, tức giận bảo: “Thật phí của! Bình dầu thơm này rất quý giá!
5 Qünki bu ǝtirni üq yüz dinardin artuⱪ pulƣa satⱪili bolatti, puli kǝmbǝƣǝllǝrgǝ sǝdiⱪǝ ⱪilinsa bolmamti! — deyixti. Ular ayalƣa xundaⱪ tapa-tǝnǝ ⱪilƣili turdi.
Sao bà không bán bình này giá hơn một năm tiền lương, và đem tiền ấy giúp người nghèo!” Rồi họ nặng lời quở trách bà.
6 Lekin Əysa ularƣa: — Uning ihtiyariƣa ⱪoyunglar, nemǝ dǝp uning kɵnglini aƣritisilǝr? U mening üstümgǝ yahxi ix ⱪildi.
Nhưng Chúa Giê-xu can thiệp: “Để mặc người, đừng la rầy! Người đã làm một việc tốt đẹp cho Ta.
7 Qünki kǝmbǝƣǝllǝr daim aranglarda bolidu, haliƣan waⱪitinglarda ularƣa hǝyr-sahawǝt kɵrsitǝlǝysilǝr; lekin mening aranglarda boluxum silǝrgǝ daim nesip boliwǝrmǝydu!
Các con luôn luôn gặp người nghèo, có thể giúp đỡ họ khi nào tùy ý, nhưng các con không ở bên Ta mãi.
8 Ayal qamining yetixiqǝ ⱪildi; u mening bǝdinimning dǝpnǝ ⱪilinixiƣa aldin’ala tǝyyarliⱪ ⱪilip, uningƣa ǝtir-may ⱪuyup ⱪoydi.
Người này đã hết sức cố gắng, xức dầu tẩm liệm thân Ta trước khi chôn cất.
9 Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, bu hux hǝwǝr pütkül dunyaning ⱪǝyeridǝ jakarlansa, bu ayal ǝslinip, uning ⱪilƣan bu ixi tǝriplinidu, — dedi.
Ta cho các con biết, việc làm của người phụ nữ hôm nay sẽ được nhắc nhở ca tụng khắp thế giới, tại những nơi Phúc Âm được truyền bá.”
10 Xu waⱪitta, on ikkiylǝndin biri bolƣan Yǝⱨuda Ixⱪariyot uni ularƣa tutup berix mǝⱪsitidǝ bax kaⱨinlarning aldiƣa bardi.
Sau đó, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, một trong mười hai sứ đồ, đến tiếp xúc với các thầy trưởng tế bàn mưu nộp Chúa Giê-xu cho họ.
11 Ular buni anglap huxal bolup kǝtti wǝ uningƣa pul berixkǝ wǝdǝ ⱪilixti. Yǝⱨuda uni tutup berixkǝ muwapiⱪ pursǝt izdǝp yürǝtti.
Nghe Giu-đa đề nghị, họ rất mừng rỡ, hứa sẽ thưởng tiền. Vậy, Giu-đa lo tìm cơ hội nộp Chúa Giê-xu.
12 Petir nan ⱨeytining birinqi küni, yǝni ɵtüp ketix ⱨeytining ⱪurbanliⱪ [ⱪozisi] soyulidiƣan küni, muhlislar uningdin: — Ɵtüp ketix ⱨeytining [tamiⱪini] yeyixing üqün bizning ⱪǝyǝrgǝ berip tǝyyarliximizni halaysǝn? — dǝp soridi.
Ngày đầu của lễ Bánh Không Men, khi chiên con bị giết cho lễ Vượt Qua, các môn đệ đến hỏi Chúa: “Thầy muốn ăn lễ Vượt Qua tại đâu? Xin Thầy chỉ bảo để chúng con sửa soạn.”
13 U muhlisliridin ikkiylǝnni aldin mangƣuzup ularƣa: — Xǝⱨǝrgǝ kiringlar, u yǝrdǝ kozida su kɵtürüwalƣan bir ǝr kixi silǝrgǝ uqraydu. Uning kǝynidin menginglar.
Chúa Giê-xu liền sai hai môn đệ đến Giê-ru-sa-lem và căn dặn: “Các con vào thành, sẽ gặp một người xách vò nước; người ấy đi đâu, cứ theo đó.
14 U adǝm nǝgǝ kirsǝ xu ɵyning igisigǝ: «Ustaz: Muhlislirim bilǝn ɵtüp ketix ⱨeytining tamiⱪini yǝydiƣan meⱨmanhana ⱪǝyǝrdǝ?— dǝp sorawatidu» — dǝnglar.
Khi vào nhà, các con nói với chủ nhà: ‘Thầy hỏi: Phòng dành riêng cho Ta và các môn đệ ăn lễ Vượt Qua ở đâu?’
15 U silǝrni baxlap üstünki ⱪǝwǝttiki rǝtlǝngǝn sǝrǝmjanlaxturulƣan qong bir eƣiz ɵyni kɵrsitidu. Mana xu yǝrdǝ bizgǝ tǝyyarliⱪ ⱪilip turunglar, — dedi.
Chủ nhà sẽ chỉ cho các con một phòng rộng trên lầu, trang bị đầy đủ. Các con cứ dọn tiệc tại đó.”
16 Muhlislar yolƣa qiⱪip xǝⱨǝrgǝ kirip, yoluⱪⱪan ixlarning ⱨǝmmisi u eytⱪandǝk boldi. Xu yǝrdǝ ular ɵtüp ketix ⱨeytining tamiⱪini tǝyyarlaxti.
Hai môn đệ ra đi, gặp mọi điều đúng như lời Chúa dặn, và chuẩn bị lễ Vượt Qua.
17 Kǝq kirgǝndǝ, u on ikkǝylǝn bilǝn ɵygǝ kǝldi.
Tối hôm đó, Chúa Giê-xu và mười hai sứ đồ cùng đến.
18 Ular dastihanda olturup ƣizalanƣanda Əysa: — Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, aranglardiki birǝylǝn, mǝn bilǝn billǝ ƣizaliniwatⱪan birsi manga satⱪunluⱪ ⱪilidu, — dedi.
Khi mọi người đang ngồi ăn, Chúa Giê-xu phán: “Ta quả quyết, một người trong các con sẽ phản Ta.”
19 Ular [bu sɵzdin] ⱪayƣuƣa qɵmüp, bir-birlǝp uningdin: — Mǝn ǝmǝstimǝn? — dǝp soridi. Yǝnǝ birsi: — Mǝn ǝmǝstimǝn? — dedi.
Các môn đệ rất buồn bực, lần lượt hỏi: “Thưa Thầy, có phải con không?”
20 Lekin u ularƣa: — [Xu kixi] on ikkǝylǝnning biri, yǝni ⱪolidiki nanni mǝn bilǝn tǝng tawaⱪⱪa tɵgürgüqi bolidu.
Chúa đáp: “Đó là một trong số mười hai người các con, là người đang nhúng bánh vào đĩa với Ta.
21 Insan’oƣli dǝrwǝⱪǝ ɵzi toƣrisida [muⱪǝddǝs yazmilarda] pütülgǝndǝk alǝmdin ketidu; biraⱪ Insan’oƣlining tutup berilixigǝ wasitiqi bolƣan adǝmning ⱨaliƣa way! U adǝm tuƣulmiƣan bolsa uningƣa yahsi bolatti! — dedi.
Vì Con Người phải hy sinh như lời Thánh Kinh đã nói. Nhưng khốn cho kẻ phản Con Người, thà nó chẳng sinh ra còn hơn!”
22 Ular ƣizaliniwatⱪanda, Əysa bir nanni ⱪoliƣa elip tǝxǝkkür eytⱪandin keyin, uni oxtup, muhlisliriƣa ülǝxtürüp bǝrdi wǝ: — Elinglar, bu mening tenim, — dedi.
Khi đang ăn, Chúa lấy bánh, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi bẻ ra trao cho các môn đệ: “Đây là thân thể Ta, các con hãy lấy ăn!”
23 Andin u ⱪoliƣa jamni elip [Hudaƣa] tǝxǝkkür eytⱪandin keyin, uni muhlisliriƣa sundi. Ularning ⱨǝmmisi uningdin iqixti.
Ngài cũng rót nước nho, cảm tạ rồi đưa cho các môn đệ cùng uống.
24 U ularƣa: — Bu mening ⱪenim, nurƣun adǝmlǝr üqün tɵkülidiƣan, yengi ǝⱨdini tüzidiƣan ⱪenimdur.
Chúa giải thích: “Đây là máu Ta, máu đổ ra cho nhiều người, để ấn chứng giao ước mới giữa Đức Chúa Trời và nhân loại.
25 Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, Hudaning padixaⱨliⱪida yengidin xarabtin iqidiƣan küngiqǝ, üzüm telining xǝrbitini ⱨǝrgiz iqmǝymǝn, — dedi.
Ta cho các con biết: Ta sẽ không uống nước nho này nữa cho đến ngày uống nước nho mới trong Nước của Đức Chúa Trời.”
26 Ular bir mǝdⱨiyǝ küyini eytⱪandin keyin talaƣa qiⱪip, Zǝytun teƣiƣa ⱪarap ketixti.
Hát thánh ca xong, Chúa Giê-xu và các môn đệ đi lên núi Ô-liu.
27 Andin Əysa ularƣa: Silǝr ⱨǝmminglar tandurulup putlixisilǝr, qünki [muⱪǝddǝs yazmilarda]: «Mǝn padiqini uruwetimǝn, Ⱪoylar patiparaⱪ bolup tarⱪitiwetilidu» dǝp pütülgǝn.
Chúa Giê-xu nói với các môn đệ: “Các con sẽ lìa bỏ Ta như Thánh Kinh đã viết: ‘Ta sẽ đánh Người Chăn, và bầy chiên sẽ chạy tan tác.’
28 Lekin mǝn tirilgǝndin keyin Galiliyǝgǝ silǝrdin burun barimǝn, — dedi.
Nhưng sau khi Ta sống lại từ cõi chết, Ta sẽ qua xứ Ga-li-lê trước để gặp các con tại đó.”
29 Lekin Petrus uningƣa: — Ⱨǝmmǝylǝn tandurulup putlaxsimu, mǝn ⱨǝrgiz putlaxmaymǝn, dedi.
Phi-e-rơ thưa: “Con sẽ chẳng xa Thầy, dù mọi người bỏ chạy!”
30 Əysa uningƣa: — Mǝn sanga bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, bügün, yǝni bügün keqǝ horaz ikki ⱪetim qilliƣuqǝ, sǝn mǝndin üq ⱪetim tanisǝn, — dedi.
Chúa Giê-xu đáp: “Ta quả quyết với con, Phi-e-rơ—đêm nay, trước khi gà gáy lần thứ hai, con sẽ chối Ta ba lần.”
31 Lekin Petrus tehimu ⱪǝt’iylik bilǝn uningƣa: — Sǝn bilǝn billǝ ɵlidiƣan ix kerǝk bolsimu, sǝndin ⱨǝrgiz tanmaymǝn, — dedi. Ⱪalƣan ⱨǝmmisimu xundaⱪ deyixti.
Nhưng Phi-e-rơ cam kết: “Con thà chết chứ không chối Thầy đâu!” Các môn đệ khác cũng đều quả quyết như thế.
32 Andin ular Getsimanǝ degǝn bir jayƣa kǝldi. U muhlislarƣa: — Mǝn dua-tilawǝt ⱪilip kǝlgüqǝ, muxu yǝrdǝ olturup turunglar, dedi.
Chúa Giê-xu và các môn đệ vào vườn ô-liu gọi là Ghết-sê-ma-nê, Ngài bảo họ: “Các con ngồi đây, trong khi Ta đi và cầu nguyện.”
33 U Petrus, Yaⱪup wǝ Yuⱨannani birgǝ elip mangdi wǝ sür besip, roⱨ-ⱪǝlbidǝ tolimu pǝrixan boluxⱪa baxlidi.
Chúa chỉ đem Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng theo Ngài. Từ lúc đó, Ngài cảm thấy bối rối, sầu não vô cùng.
34 U ularƣa: — Jenim ɵlidiƣandǝk bǝkmu azablanmaⱪta. Silǝr bu yǝrdǝ ⱪelip, oyƣaⱪ turunglar, — dedi.
Ngài nói: “Linh hồn Ta buồn rầu tột độ! Các con ở đây và thức canh với Ta.”
35 U sǝl neriraⱪ berip, ɵzini yǝrgǝ etip düm yatti wǝ mumkin bolsa, u dǝⱪiⱪining ɵz bexiƣa qüxmǝy ɵtüp ketixi üqün dua ⱪilip:
Chúa đi một quãng, rồi quỳ sấp dưới đất, cầu xin cho giờ phút khủng khiếp đừng đến với Ngài nếu có thể được.
36 — I Abba Ata, Sanga ⱨǝmmǝ ix mumkindur; bu ⱪǝdǝⱨni mǝndin ɵtküzüwǝtkǝysǝn! Lekin bu ix mǝn haliƣandǝk ǝmǝs, sǝn haliƣandǝk bolsun, — dedi.
Ngài cầu nguyện: “Thưa Cha, Cha có quyền làm mọi việc, xin cho Con khỏi uống chén này, nhưng xin theo ý Cha, chứ không theo ý Con.”
37 U [üqǝylǝnning] yeniƣa ⱪaytip kǝlginidǝ, ularning uhlap ⱪalƣanliⱪini kɵrüp, Petrusⱪa: — Əy Simon, uhlawatamsǝn?! Bir saǝtmu oyƣaⱪ turalmidingmu?!
Khi trở lại, Chúa thấy các môn đệ đang ngủ gục. Ngài gọi Phi-e-rơ: “Si-môn, con ngủ sao? Con không thức với Ta được một giờ sao?
38 Eziⱪturuluxtin saⱪlinix üqün, oyƣaⱪ turup dua ⱪilinglar. Roⱨ pidakar bolsimu, lekin kixining ǝtliri ajizdur, — dedi.
Phải tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa vào vòng cám dỗ. Vì tâm linh thật muốn, nhưng thể xác yếu đuối.”
39 Andin u yǝnǝ berip, ohxax sɵzlǝr bilǝn ⱪaytidin dua ⱪildi.
Chúa Giê-xu lại đi và cầu xin như lần trước.
40 U ularning yeniƣa ⱪaytip kǝlginidǝ, ularning yǝnǝ uhlap ⱪalƣanliⱪini kɵrdi, qünki ularning kɵzliri uyⱪuƣa ilinƣanidi. Ular uningƣa nemǝ deyixini bilmǝy ⱪaldi.
Lần này quay lại, Chúa thấy các môn đệ vẫn ngủ, mắt nhắm nghiền, không đối đáp gì được.
41 U üqinqi ⱪetim ularning yeniƣa ⱪaytip ularƣa: — Silǝr tehiqǝ uhlawatamsilǝr, tehiqǝ dǝm eliwatamsilǝr? Əmdi boldi bǝs! Waⱪit-saiti kǝldi; mana, Insan’oƣli gunaⱨkarlarning ⱪoliƣa tapxuruldi!
Trở lại lần thứ ba, Chúa bảo họ: “Bây giờ các con vẫn còn ngủ sao? Đủ rồi! Đã đến lúc Con Người bị phản nộp vào tay bọn gian ác.
42 Ⱪopunglar, ketǝyli; mana, manga satⱪunluⱪ ⱪilidiƣan kixi yeⱪin kǝldi! — dedi.
Đứng dậy, đi với Ta. Kìa, kẻ phản Ta đã tới!”
43 Wǝ xu dǝⱪiⱪidǝ, uning sɵzi tehi tügimǝyla, mana, on ikkǝylǝndin biri bolƣan Yǝⱨuda kǝldi; uning yenida bax kaⱨinlar, Tǝwrat ustazliri wǝ aⱪsaⱪallar tǝripidin ǝwǝtilgǝn ⱪiliq-toⱪmaⱪlarni kɵtürgǝn zor bir top adǝm bar idi.
Ngay khi Chúa Giê-xu đang nói, Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ, xông đến. Theo sau là một toán người cầm gươm dao, gậy gộc, do các thầy trưởng tế, các thầy dạy luật, và các trưởng lão sai đến.
44 Uningƣa satⱪunluⱪ ⱪilƣuqi ular bilǝn alliburun ixarǝtni bekitip: «Mǝn kimni sɵysǝm, u dǝl xudur. Silǝr uni tutup, yalap elip ketinglar» dǝp kelixkǝnidi.
Tên phản Chúa đã ra ám hiệu: “Tôi hôn người nào, các anh cứ bắt dẫn đi!”
45 U kelip udul [Əysaning] aldiƣa berip: — Ustaz, ustaz! — dǝp uni sɵyüp kǝtti.
Vì vậy, vừa đến nơi, Giu-đa trân tráo xông lên chào Chúa: “Lạy Thầy!” Rồi nó hôn Chúa.
46 Ular uningƣa ⱪol selip, uni tutⱪun ⱪildi.
Bọn kia liền bắt giữ Chúa Giê-xu.
47 Wǝ uning yenida turƣanlardin birǝylǝn ⱪiliqini suƣurup, bax kaⱨinning qakiriƣa uruwidi, uning ⱪuliⱪini xilip qüxürüwǝtti.
Nhưng có một người đứng gần đó rút gươm chém đầy tớ của thầy thượng tế, đứt mất một vành tai.
48 Əysa jawabǝn ularƣa: — Bir ⱪaraⱪqini tutidiƣandǝk ⱪiliq-toⱪmaⱪlarni kɵtürüp meni tutⱪili kǝpsilǝrƣu?
Chúa Giê-xu hỏi họ: “Ta đâu phải trộm cướp mà các ông đem gươm dao, gậy gộc đến bắt?
49 Mǝn ⱨǝr küni ibadǝthana ⱨoylilirida silǝr bilǝn billǝ bolup tǝlim berǝttim, lekin silǝr u qaƣda meni tutmidinglar. Lekin bu ixlarning yüz berixi muⱪǝddǝs yazmilarda aldin pütülgǝnlǝrning ǝmǝlgǝ axuruluxi üqün boldi, — dedi.
Hằng ngày Ta vẫn ở với các ông, giảng dạy trong Đền Thờ, sao các ông không bắt Ta? Nhưng những việc này xảy ra để làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Thánh Kinh nói về Ta.”
50 Bu qaƣda, ⱨǝmmǝylǝn uni taxlap ⱪeqip ketixti.
Tất cả môn đệ đều bỏ Chúa trốn biệt.
51 Pǝⱪǝt uqisiƣa kanap rǝht yepinqaⱪliwalƣan bir yigit uning kǝynidin ǝgixip mangdi. Yax ǝskǝrlǝr uni tutuweliwidi,
Có một thanh niên đi theo Chúa, chỉ choàng trên người một tấm khăn. Toán người kia túm bắt anh,
52 lekin u kanap rǝhttin boxinip, yalingaq peti ulardin ⱪeqip kǝtti.
nhưng anh buông tấm khăn, trần truồng chạy trốn.
53 Əmdi ular Əysani bax kaⱨinning aldiƣa elip berixti. Bax kaⱨinlar, barliⱪ aⱪsaⱪallar bilǝn Tǝwrat ustazlirimu u yǝrgǝ uning yeniƣa yiƣildi.
Người ta giải Chúa Giê-xu đến dinh thầy thượng tế, nơi các thầy trưởng tế, các trưởng lão, và các thầy dạy luật đã họp mặt đông đủ.
54 Petrus uningƣa taki bax kaⱨinning sarayidiki ⱨoylining iqigiqǝ yiraⱪtin ǝgixip kǝldi; u ⱪarawullar bilǝn billǝ otning nurida otsinip olturdi.
Phi-e-rơ theo sau Chúa xa xa, cho đến khi vào sân dinh thầy thượng tế. Ông ngồi chung với bọn tuần cảnh, sưởi ấm bên đống lửa.
55 Bax kaⱨinlar wǝ pütün aliy kengǝxmǝ ǝzaliri Əysani ɵlümgǝ mǝⱨkum ⱪilix üqün, guwaⱨ-ispat izdidi, ǝmma tapalmidi.
Các thầy trưởng tế và cả Hội Đồng Quốc Gia tìm bằng chứng để ghép Chúa Giê-xu vào tội tử hình, nhưng không tìm được.
56 Qünki nurƣun kixilǝr uni ǝrz ⱪilip yalƣan guwaⱨqiliⱪ bǝrgǝn bolsimu, ularning guwaⱨliⱪliri bir-birigǝ udul kǝlmǝytti.
Nhiều người vu cáo Chúa đủ điều, nhưng lời chứng của họ mâu thuẫn nhau.
57 Bǝzi adǝmlǝr ornidin turup, uning üstidin ǝrz ⱪilip yalƣan guwaⱨliⱪ berip:
Sau đó, có người đứng lên làm chứng dối rằng:
58 — Biz uning: «Insan ⱪoli bilǝn yasalƣan bu ibadǝthanini buzup taxlap, insan ⱪoli bilǝn yasalmiƣan baxⱪa bir ibadǝthanini üq kün iqidǝ yasap qiⱪimǝn» degǝnlikini angliduⱪ, — dedi.
“Chúng tôi nghe người này nói: ‘Ta sẽ phá nát Đền Thờ do con người xây cất, rồi trong ba ngày Ta sẽ dựng một Đền Thờ khác, không bởi tay con người.’”
59 Ⱨǝtta ularning bu ⱨǝⱪtiki guwaⱨliⱪlirimu bir-birigǝ mas kǝlmidi.
Ngay điểm này, lời tố cáo của họ cũng không phù hợp nhau.
60 Andin bax kaⱨin ⱨǝmmǝylǝnning aldida ornidin turup, Əysadin: — Ⱪeni, jawab bǝrmǝmsǝn? Bular sening üstüngdin zadi ⱪandaⱪ guwaⱨliⱪlarni beriwatidu? — dǝp soridi.
Thầy thượng tế đứng dậy giữa hội đồng và hỏi Chúa: “Sao? Anh trả lời thế nào về lời tố cáo đó?”
61 Lekin Əysa xük turup, ⱨeqⱪandaⱪ jawab bǝrmidi. Bax kaⱨin uni ⱪistap yǝnǝ uningdin: — Sǝn Mubarǝk Bolƣuqining Oƣli Mǝsiⱨmusǝn? — dǝp soridi.
Nhưng Chúa Giê-xu vẫn im lặng, không đáp một lời. Thầy thượng tế hỏi tiếp: “Anh có phải là Đấng Mết-si-a, Con của Đấng Phước Lành không?”
62 Xundaⱪ, mǝn ɵzüm, — dedi Əysa, — wǝ silǝr keyin Insan’oƣlining Ⱪudrǝt Igisining ong yenida olturidiƣanliⱪini wǝ asmandiki bulutlar bilǝn kelidiƣanliⱪini kɵrisilǝr.
Chúa Giê-xu đáp: “Phải, chính Ta. Rồi đây các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên phải ngai của Đức Chúa Trời quyền năng, và cỡi mây trời trở lại trần gian.”
63 Xuning bilǝn bax kaⱨin tonlirini yirtip taxlap: — Əmdi baxⱪa ⱨǝrⱪandaⱪ guwaⱨqining nemǝ ⱨajiti?
Thầy thượng tế xé áo mình và nói: “Chúng ta cần gì nhân chứng nữa!
64 Ɵzünglar bu kupurluⱪni anglidinglar! Əmdi buningƣa nemǝ dǝysilǝr? — dedi. Ularning ⱨǝmmisi u ɵlüm jazasiƣa buyrulsun, dǝp ⱨɵküm qiⱪirixti.
Quý Ngài vừa nghe tận tai lời phạm thượng. Vậy quý ngài quyết định thế nào?” Các lãnh tụ Do Thái đều đồng ý lên án tử hình Chúa Giê-xu.
65 Andin bǝziliri uningƣa tükürüxkǝ baxlidi, yǝnǝ uning kɵzlirini tengip, muxtlap: «Ⱪeni, [pǝyƣǝmbǝrqilik ⱪilip] bexarǝt berǝ!» deyixti. Ⱪarawullarmu uni xapilaⱪ bilǝn kaqatlidi.
Người ta khạc nhổ vào mặt Chúa, bịt mắt Chúa, đánh đấm Ngài rồi nói: “Thử đoán xem, ai vừa đánh anh đó?” Bọn lính canh cũng vả vào mặt Ngài và giải đi.
66 Petrus sarayning tɵwǝnki ⱨoylisida turƣanda, bax kaⱨinning dedǝkliridin biri kelip,
Phi-e-rơ đang ở ngoài sân, một đầy tớ gái của thầy thượng tế bước đến,
67 issinip olturƣan Petrusni kɵrüp, uningƣa tikilip ⱪarap: — Sǝnmu Nasarǝtlik Əysa bilǝn billǝ idingƣu, — dedi.
thấy ông đang ngồi sưởi, lại gần nhìn mặt rồi nói: “Anh cũng là đồ đệ của Giê-xu, người Na-xa-rét!”
68 Lekin u tenip: — Sening nemǝ dǝwatⱪanliⱪingni bilmidim ⱨǝm qüxǝnmidim, — dedi-dǝ, taxⱪiriƣa, dǝrwazining aywaniƣa qiⱪip turdi. Xu ǝsnada horaz bir qillidi.
Nhưng Phi-e-rơ chối: “Chị nói gì tôi không hiểu!” Rồi ông đi ra cổng liền có tiếng gà gáy.
69 Uni yǝnǝ kɵrgǝn ⱨeliⱪi dedǝk yǝnǝ u yǝrdǝ turƣanlarƣa: — Bu ulardin biri, — degili turdi.
Chị đầy tớ nhìn thấy, báo cho những người đứng chung quanh: “Anh ấy theo phe Giê-xu đó!”
70 [Petrus] yǝnǝ inkar ⱪildi. Bir’azdin keyin, u yǝrdǝ turƣanlar Petrusⱪa yǝnǝ: — Bǝrⱨǝⱪ, sǝn ularning birisǝn. Qünki sǝnmu Galiliyǝlik ikǝnsǝnƣu?! — deyixti.
Phi-e-rơ liền chối một lần nữa. Một lát sau, những người đứng chung quanh tố Phi-e-rơ: “Đúng rồi! Anh cũng thuộc bọn Giê-xu, vì anh là người Ga-li-lê.”
71 Lekin u ⱪattiⱪ ⱪarƣaxlar bilǝn ⱪǝsǝm ⱪilip: — Silǝr dǝwatⱪan ⱨeliⱪi adǝmni tonumaymǝn! — dedi.
Phi-e-rơ liền thề độc: “Tôi không biết người mấy ông nói đó là ai cả! Nếu tôi dối, xin sự rủa sả giáng trên tôi.”
72 Dǝl xu qaƣda horaz ikkinqi ⱪetim qillidi. Petrus Əysaning ɵzigǝ: «Horaz ikki ⱪetim qilliƣuqǝ, sǝn mǝndin üq ⱪetim tanisǝn» degǝn sɵzini esigǝ aldi; wǝ bularni oylap yiƣlap kǝtti.
Vừa lúc ấy, gà gáy lần thứ hai. Phi-e-rơ sực nhớ lại lời Chúa Giê-xu: “Trước khi gà gáy lần thứ hai, con sẽ chối Ta ba lần!” Ông liền thổn thức khóc.

< Markus 14 >