< Yuⱨanna 6 >
1 Bu ixlardin keyin, Əysa Galiliyǝ dengizi (Tiberiyas dengizi dǝpmu atilidu)ning u ⱪetiƣa ɵtti.
Rồi đó, Đức Chúa Jêsus qua bờ bên kia biển Ga-li-lê, là biển Ti-bê-ri-át.
2 Zor bir top halayiⱪ u kesǝllǝrni saⱪaytⱪan mɵjizilik alamǝtlirini kɵrdi wǝ uning kǝynidin ǝgixip mangdi.
Một đoàn dân đông theo Ngài, vì từng thấy các phép lạ Ngài làm cho những kẻ bịnh.
3 Əysa taƣⱪa qiⱪip, u yǝrdǝ muhlisliri bilǝn billǝ olturdi.
Nhưng Đức Chúa Jêsus lên trên núi, ngồi đó với môn đồ.
4 U qaƣda Yǝⱨudiylarning ⱨeyti, yǝni «ɵtüp ketix ⱨeyti»ƣa az ⱪalƣan waⱪit idi.
Vả, lễ Vượt Qua, là lễ của dân Giu-đa gần tới.
5 Əysa bexini kɵtürüp, zor bir top halayiⱪning ɵzining aldiƣa keliwatⱪanliⱪini kɵrüp, Filiptin: — Bularƣa yǝydiƣanƣa nanni nǝdin alimiz? — dǝp soridi
Đức Chúa Jêsus ngước mắt lên, thấy một đoàn dân đông đến cùng mình, bèn phán với Phi-líp rằng: Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu, để cho dân nầy có mà ăn?
6 (lekin u bu sɵzni Filipni sinax üqün eytⱪanidi. Qünki u ɵzining nemǝ ⱪilidiƣanliⱪini bilǝtti).
Ngài phán điều đó đặng thử Phi-líp, chớ Ngài đã biết điều Ngài sẽ làm rồi.
7 Filip jawabǝn: — Ikki yüz dinarƣa nan alsaⱪmu, ⱨǝrbirigǝ kiqikkinǝ bir qixlǝmdin yeyixkimu yǝtmǝydu!
Phi-líp thưa rằng: Hai trăm đơ-ni-ê bánh không đủ phát cho mỗi người một ít.
8 Muhlislardin biri, yǝni Simon Petrusning inisi Andriyas Əysaƣa:
Một môn đồ, là Anh-rê, em của Si-môn Phi-e-rơ, thưa rằng:
9 — Bu yǝrdǝ kiqik bir oƣul bala bar, uningda bǝx arpa nan bilǝn ikki kiqik beliⱪ bar. Lekin xunqǝ kɵp hǝlⱪⱪǝ bu nemǝ bolidu?! — dedi.
Đây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông người dường nầy, thì ngằn ấy có thấm vào đâu?
10 Əysa: — Kɵpqilikni olturƣuzunglar, — dedi (u yǝrdǝ ot-qɵp mol ɵskǝnidi). Xuning bilǝn ǝr kixilǝr olturdi; ularning sani bǝx mingqǝ bar idi.
Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hãy truyền cho chúng ngồi xuống. Vả, trong nơi đó có nhiều cỏ. Vậy, chúng ngồi xuống, số người ước được năm ngàn.
11 Əysa nanlarni ⱪoliƣa elip, [Hudaƣa] tǝxǝkkür eytⱪandin keyin, olturƣanlarƣa ülǝxtürüp bǝrdi. Beliⱪlarnimu xundaⱪ ⱪildi; kɵpqilik haliƣanqǝ yedi.
Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bèn phân phát cho những kẻ đã ngồi; Ngài cũng lấy cá phát cho chúng nữa, ai muốn bao nhiêu mặc ý.
12 Ⱨǝmmǝylǝn yǝp toyunƣanda, u muhlisliriƣa: — Axⱪan parqilarni yiƣinglar, ⱨeq nǝrsǝ zayǝ bolmisun, — dedi.
Khi chúng đã ăn được no nê, Ngài phán với môn đồ rằng: Hãy lượm những miếng còn thừa, hầu cho không mất chút nào.
13 Xuning bilǝn ular bǝx arpa nenidin yǝp axⱪan parqilirini on ikki sewǝtkǝ toldurup yiƣiwaldi.
Vậy, môn đồ lượm những miếng thừa của năm cái bánh mạch nha, sau khi người ta đã ăn rồi, chứa đầy mười hai giỏ.
14 Əmdi halayiⱪ Əysaning kɵrsǝtkǝn bu mɵjizilik alamitini kɵrüp: «Dunyaƣa kelixi muⱪǝrrǝr bolƣan pǝyƣǝmbǝr ⱨǝⱪiⱪǝtǝn muxu ikǝn!» deyixti.
Những người đó thấy phép lạ Đức Chúa Jêsus đã làm, thì nói rằng: Người nầy thật là Đấng tiên tri phải đến thế gian.
15 Xuning bilǝn Əysa ularning kelip ɵzini padixaⱨ boluxⱪa zorlimaⱪqi bolƣanliⱪini bilip, ulardin ayrilip, ⱪaytidin taƣⱪa yalƣuz qiⱪip kǝtti.
Bấy giờ Đức Chúa Jêsus biết chúng có ý đến ép Ngài để tôn làm vua, bèn lui ở một mình trên núi.
16 Kǝqⱪurun, Əysaning muhlisliri dengiz boyiƣa qüxüxti.
Đến chiều, môn đồ xuống nơi bờ biển,
17 Ular bir kemigǝ olturup, dengizning u ⱪetidiki Kǝpǝrnaⱨum xǝⱨirigǝ ⱪarap yol elixti (ⱪarangƣu qüxüp kǝtkǝnidi wǝ Əysa tehiqǝ ularning yeniƣa kǝlmigǝnidi).
và vào trong một chiếc thuyền, sang thẳng bờ bên kia, hướng về thành Ca-bê-na-um. Trời chợt tối, mà Đức Chúa Jêsus còn chưa đến cùng các môn đồ.
18 Ⱪattiⱪ boran qiⱪip, dengiz dolⱪunlap kɵtürülüwatatti.
Gió thổi ào ào, đến nỗi biển động dữ dội.
19 Muhlislar palaⱪ urup on-on bir qaⱪirimqǝ mangƣanda, Əysaning dengizning üstidǝ mengip kemigǝ yeⱪinlixiwatⱪanliⱪini kɵrüp, ⱪorⱪuxup kǝtti.
Khi các môn đồ đã chèo ra độ chừng hai mươi lăm hay là ba mươi ếch-ta-đơ, thấy Đức Chúa Jêsus đi trên mặt biển, gần tới chiếc thuyền, thì sợ hãi.
20 Lekin u ularƣa: — Bu mǝn, ⱪorⱪmanglar! — dedi.
Nhưng Ngài phán rằng: Aáy là ta đây, đừng sợ chi!
21 Xuni anglap ular uni kemigǝ qiⱪiriwalƣusi kǝldi; u kemigǝ qiⱪipla, kemǝ dǝrⱨal ular baridiƣan yǝrgǝ yetip bardi.
Bấy giờ, môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyền đậu vào bờ, là nơi định đi.
22 Ətisi dengizning u tǝripidǝ ⱪalƣan halayiⱪ [aldinⱪi küni] u yǝrdǝ Əysaning muhlisliri qiⱪⱪan kemidin baxⱪa kemining yoⱪluⱪini, Əysaning muhlisliri xu kemigǝ qiⱪⱪanda, Əysaning ular billǝ qiⱪmiƣanliⱪini, bǝlki muhlislirining ɵzlirila kǝtkǝnlikini kɵrgǝnidi.
Đoàn dân ở bờ biển bên kia, đã nhận rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền, và Đức Chúa Jêsus không vào thuyền với môn đồ Ngài, chỉ một mình môn đồ đi mà thôi.
23 Ⱨalbuki, birnǝqqǝ kemǝ-ⱪolwaⱪ Tiberiyas xǝⱨiridin Rǝb tǝxǝkkür eytⱪandin keyin hǝlⱪ nan yegǝn yǝrgǝ yeⱪin kelip tohtidi.
Qua ngày sau, có mấy chiếc thuyền khác từ thành Ti-bê-ri-át lại gần nơi chúng đã ăn bánh khi Chúa tạ ơn rồi,
24 Xuning bilǝn halayiⱪ Əysaning wǝ muhlislirining u yǝrdǝ yoⱪluⱪini kɵrüpla, kemilǝrgǝ olturup, Əysani izdigili Kǝpǝrnaⱨum xǝⱨirigǝ mangdi.
đoàn dân thấy Đức Chúa Jêsus không ở đó, môn đồ cũng không, bèn vào mấy thuyền kia mà đi qua thành Ca-bê-na-um để tìm Đức Chúa Jêsus.
25 Ular uni dengizning u tǝripidǝ tepip uningƣa: — Ustaz, bu yǝrgǝ ⱪaqan kǝlding? — dǝp soraxti.
Chúng vừa tìm được Ngài tại bờ bên kia biển, bèn thưa rằng: Lạy thầy, thầy đến đây bao giờ?
26 Əysa ularƣa jawabǝn: — Bǝrⱨǝⱪ, bǝrⱨǝⱪ, mǝn silǝrgǝ xuni eytip ⱪoyayki, silǝr meni mɵjizilik alamǝtlǝrni kɵrgǝnlikinglar üqün ǝmǝs, bǝlki nanlardin yǝp toyunƣininglar üqün izdǝysilǝr.
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi tìm ta chẳng phải vì đã thấy mấy phép lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh và được no.
27 Buzulup ketidiƣan paniy ozuⱪluⱪⱪa ǝmǝs, bǝlki mǝnggü ⱨayatliⱪⱪa baⱪiy ⱪalidiƣan ozuⱪluⱪⱪa intilip ixlǝnglar; buni Insan’oƣli silǝrgǝ beridu; qünki uni Ata, yǝni Huda Ɵzi mɵⱨürlǝp tǝstiⱪliƣan, — dedi. (aiōnios )
Hãy làm việc, chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi; vì ấy là Con, mà Cha, tức là chính Đức Chúa Trời, đã ghi ấn tín của mình. (aiōnios )
28 Xuning bilǝn ular uningdin: — Nemigǝ intilip ixlisǝk andin Hudaning ix-hizmitidǝ ixligǝn bolimiz? — dǝp soraxti.
Chúng thưa rằng: Chúng tôi phải làm chi cho được làm công việc Đức Chúa Trời?
29 Əysa ularƣa jawab berip: — Hudaning ix-hizmiti dǝl xuki, U ǝwǝtkinigǝ etiⱪad ⱪilixinglardur, — dedi.
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài.
30 Xuning bilǝn ular yǝnǝ: — Undaⱪ bolsa sǝn bizni kɵrüp ɵzünggǝ ixǝndürgüdǝk ⱪandaⱪ mɵjizilik alamǝt yaritisǝn? Zadi nemǝ ix ⱪilip berisǝn?
Chúng bèn nói rằng: Thế thì thầy làm phép lạ gì, để cho chúng tôi thấy và tin? Thầy làm công việc gì?
31 Ata-bowilirimiz qɵldǝ yürgǝndǝ, [Zǝburda]: «U ularƣa ǝrxtin qüxürülgǝn nan tǝⱪdim ⱪildi» dǝp pütülgǝndǝk, «manna»ni yegǝn — deyixti.
Tổ phụ chúng ta đã ăn ma-na trong đồng vắng, theo như lời chép rằng: Ngài đã ban cho họ ăn bánh từ trên trời xuống.
32 Əysa ularƣa mundaⱪ dedi: — Bǝrⱨǝⱪ, bǝrⱨǝⱪ, mǝn silǝrgǝ xuni eytip ⱪoyayki, silǝrgǝ asmandin qüxkǝn nanni bǝrgüqi Musa ǝmǝs, bǝlki mening Atamdur; U [ⱨazirmu] silǝrgǝ asmandin qüxkǝn ⱨǝⱪiⱪiy nanni beriwatidu.
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, Môi-se chưa hề cho các ngươi bánh từ trên trời đâu; nhưng Cha ta ban cho các ngươi bánh thật, là bánh từ trên trời xuống.
33 Qünki Hudaning neni bolsa pütkül dunyaƣa ⱨayatliⱪ ata ⱪilidiƣan, ǝrxtin qüxküqidur.
Bởi chưng bánh Đức Chúa Trời là bánh từ trên trời giáng xuống, ban sự sống cho thế gian.
34 — Tǝⱪsir, ⱨǝmixǝ bizgǝ xu nanni berip turƣaysǝn! — deyixti ular.
Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin ban bánh đó cho chúng tôi luôn luôn!
35 Əysa ularƣa mundaⱪ dedi: — Ⱨayatliⱪ neni ɵzümdurmǝn! Mening yenimƣa kǝlgǝn ⱨǝrkim ⱨeqⱪaqan aq ⱪalmaydu, manga etiⱪad ⱪilƣan ⱨǝrkim ⱨeqⱪaqan ussimaydu.
Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát.
36 Lekin silǝrgǝ eytⱪinimdǝk, silǝr meni kɵrgǝn bolsanglarmu, etiⱪad ⱪilmaywatisilǝr.
Nhưng ta đã nói: Các ngươi đã thấy ta, mà chẳng tin.
37 Ata manga tapxurƣanlarning ⱨǝrbiri yenimƣa kelidu wǝ mening yenimƣa kǝlgǝnlǝrdin ⱨeqⱪaysisini ⱨǝrgiz taxliwǝtmǝymǝn.
Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu.
38 Qünki ɵz iradǝmni ǝmǝs, bǝlki meni Əwǝtküqining iradisini ǝmǝlgǝ axurux üqün ǝrxtin qüxtüm.
Vì ta từ trên trời xuống, chẳng phải để làm theo ý ta, nhưng làm theo ý Đấng đã sai ta đến.
39 Meni Əwǝtküqining iradisi bolsa dǝl xuki, uning manga tapxurƣanliridin ⱨeqbirini yittürmǝy, bǝlki ahirⱪi küni ularning ⱨǝmmisini tirildürüxümdin ibarǝt.
Vả, ý muốn của Đấng đã sai ta đến là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt.
40 Qünki mening Atamning iradisi xuki, Oƣulƣa kɵz tikip ⱪarap, uningƣa etiⱪad ⱪilƣanlarning ⱨǝrbirini mǝnggülük ⱨayatⱪa erixtürüxtur; wǝ mǝn ahirⱪi küni ularni tirildürimǝn. (aiōnios )
Đây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; còn ta, ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt. (aiōnios )
41 Əmdi Yǝⱨudiylar Əysaning: «Ərxtin qüxkǝn nan ɵzümdurmǝn!» degini üqün uningƣa narazi bolup ƣotuldixixⱪa baxlidi:
Nhưng vì Ngài đã phán: Ta là bánh từ trên trời xuống, nên các người Giu-đa lằm bằm về Ngài,
42 — «Bu Yüsüpning oƣli Əysa ǝmǝsmu? Atisinimu, anisinimu tonuydiƣan tursaⱪ, yǝnǝ ⱪandaⱪlarqǝ: — «Ərxtin qüxtüm!» desun?» — deyixǝtti ular.
mà rằng: Aáy chẳng phải là Jêsus, con của Giô-sép, mà chúng ta đều biết cha mẹ người chăng? Vậy, thể nào người nói được rằng: Ta đã từ trên trời mà xuống?
43 Əysa jawabǝn ularƣa mundaⱪ dedi: — [Mening toƣramda] ɵzara ƣotuldaxmanglar.
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi chớ lằm bằm với nhau.
44 Meni ǝwǝtkǝn Ata Ɵzi kixilǝrning ⱪǝlbini tartⱪuzmisa, ⱨeqkim mening yenimƣa kelǝlmǝydu; mening yenimƣa kǝlgǝn ⱨǝrbirini ahirⱪi küni tirildürimǝn.
Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta, và ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt.
45 Pǝyƣǝmbǝrlǝrning yazmilirida: «Ularning ⱨǝmmisigǝ Huda tǝripidin ɵgitilidu» dǝp pütülgǝndur. Xunga, Atining [sɵzini] tingxiƣan wǝ uningdin ɵgǝngǝn ⱨǝrbiri mening yenimƣa kelidu.
Các sách tiên tri có chép rằng: Ai nấy đều sẽ được Đức Chúa Trời dạy dỗ. Hễ ai đã nghe Cha và học theo Ngài thì đến cùng ta.
46 Biraⱪ bu birǝrkim Atini kɵrgǝn degǝnlik ǝmǝs; pǝⱪǝt Hudaning yenidin kǝlgüqi bolsa, u Atini kɵrgǝndur.
Aáy chẳng phải kẻ nào đã từng thấy Cha, trừ ra Đấng từ Đức Chúa Trời mà đến; Đấng ấy đã thấy Cha.
47 Bǝrⱨǝⱪ, bǝrⱨǝⱪ, mǝn silǝrgǝ xuni eytip ⱪoyayki, manga etiⱪad ⱪilƣuqi mǝnggülük ⱨayatⱪa igidur. (aiōnios )
Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời. (aiōnios )
48 Ⱨayatliⱪ neni ɵzümdurmǝn.
Ta là bánh của sự sống.
49 Ata-bowiliringlar qɵllǝrdǝ «manna» yegini bilǝn yǝnila ɵldi.
Tổ phụ các ngươi đã ăn ma-na trong đồng vắng, rồi cũng chết.
50 Lekin mana, ǝrxtin qüxkǝn nan dǝl xundaⱪki, birsi uningdin yegǝn bolsa ɵlmǝydu.
Đây là bánh từ trời xuống, hầu cho ai ăn chẳng hề chết.
51 Ərxtin qüxkǝn ⱨayatliⱪ neni ɵzümdurmǝn; kimdǝkim bu nandin yesǝ, ǝbǝdil’ǝbǝdgiqǝ yaxaydu. Mǝn beridiƣan xu nan bolsa mening ǝt-tenimdur, pütkül dunyadikilǝr ⱨayatⱪa igǝ bolsun dǝp, mǝn uni atimaⱪqimǝn. (aiōn )
Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng; và bánh mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta. (aiōn )
52 Bu sɵz bilǝn Yǝⱨudiylar ɵzara talax-tartix ⱪilixiⱪa baxlap: — Bu adǝm bizning yeyiximizgǝ ɵzining ǝt-tenini ⱪandaⱪ berǝlisun?! — deyixǝtti.
Bởi đó, các người Giu-đa cãi lẽ với nhau, mà rằng: Lẽ nào người nầy lấy thịt mình cho chúng ta ăn sao?
53 Xunga Əysa ularƣa mundaⱪ dedi: — Bǝrⱨǝⱪ, bǝrⱨǝⱪ, mǝn silǝrgǝ xuni eytip ⱪoyayki, silǝr Insan’oƣlining ǝt-tenini yemigüqǝ wǝ ⱪenini iqmigüqǝ, silǝrdǝ ⱨayatliⱪ bolmaydu.
Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu.
54 Ət-tenimni yegüqi wǝ ⱪenimni iqküqi mǝnggülük ⱨayatⱪa erixkǝn bolidu wǝ mǝn uni ahirⱪi küni tirildürimǝn. (aiōnios )
Ai ăn thịt và uống huyết ta thì được sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta sẽ khiến người đó sống lại. (aiōnios )
55 Qünki ǝt-tenim ⱨǝⱪiⱪiy ozuⱪluⱪ, ⱪenim bolsa ⱨǝⱪiⱪiy iqimliktur.
Vì thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống.
56 Ət-tenimni yegüqi wǝ ⱪenimni iqküqi mǝndǝ yaxaydu wǝ mǝnmu uningda yaxaymǝn.
Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người.
57 Ⱨayat Ata meni ǝwǝtkǝn wǝ mǝn Atining bolƣanliⱪidin yaxawatⱪinimdǝk, meni yegüqi kixi ⱨǝm mening wasitǝm bilǝn yaxaydu.
Như Cha, là Đấng hằng sống, đã sai ta đến, và ta sống bởi Cha; cũng một thể ấy, người nào ăn ta, sẽ sống bởi ta vậy.
58 Mana bu ǝrxtin qüxkǝn nandur. Bu nan ata-bowiliringlar yegǝn «[manna]»dǝk ǝmǝs; qünki ular «[manna]»ni yeyixi bilǝn ɵldi; biraⱪ bu nanni istemal ⱪilƣuqi bolsa mǝnggü yaxaydu! (aiōn )
Đây là bánh từ trên trời xuống. Bánh đó chẳng phải như ma-na mà tổ phụ các ngươi đã ăn, ... rồi cũng chết; kẻ nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời. (aiōn )
59 Bu sɵzlǝrni u Kǝpǝrnaⱨumdiki sinagogda tǝlim bǝrginidǝ eytⱪanidi.
Đức Chúa Jêsus phán những điều đó lúc dạy dỗ trong nhà hội tại thành Ca-bê-na-um.
60 Xuning bilǝn uning muhlisliridin nurƣunliri buni angliƣanda: — Bu tǝlim bǝk eƣir ikǝn! Buni kim anglap kɵtürǝlisun? — deyixti.
Có nhiều môn đồ nghe Ngài, thì nói rằng: Lời nầy thật khó; ai nghe được?
61 Biraⱪ ɵz iqidǝ muhlislirining bu toƣrisida ƣotuldaxⱪinini bilgǝn Əysa ularƣa: — Bu sɵzüm silǝrni taydurdimu?
Nhưng Đức Chúa Jêsus tự mình biết môn đồ lằm bằm về việc đó, bèn phán rằng: Điều đó xui các ngươi vấp phạm sao?
62 Əmdi mubada Insan’oƣlining ǝsli kǝlgǝn jayƣa kɵtürülüwatⱪinini kɵrsǝnglar, ⱪandaⱪ bolar?!
Vậy, nếu các ngươi thấy Con người lên nơi Ngài vốn ở khi trước thì thể nào?
63 [Insanƣa] ⱨayatliⱪ bǝrgüqi — Roⱨtur. Insanning ǝtliri bolsa ⱨeqⱪandaⱪ payda bǝrmǝydu. Mǝn silǝrgǝ eytⱪan sɵzlirim bolsa ⱨǝm roⱨtur wǝ ⱨǝm ⱨayatliⱪtur.
Aáy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi. Những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống.
64 Lekin aranglardin etiⱪad ⱪilmiƣan bǝzilǝr bar, — dedi (qünki Əysa etiⱪad ⱪilmiƣanlarning wǝ ɵzigǝ satⱪunluⱪ ⱪilidiƣanning kim ikǝnlikini baxtila bilǝtti).
Song trong vòng các ngươi có kẻ không tin. Vì Đức Chúa Jêsus biết từ ban đầu, ai là kẻ không tin, ai là kẻ sẽ phản Ngài.
65 Xuning bilǝn u mundaⱪ dedi: — Mǝn xu sǝwǝbtin silǝrgǝ xuni eyttimki, Atamdin ata ⱪilinmisa, ⱨeqkim mening yenimƣa kelǝlmǝydu!
Ngài lại phán rằng: Chính vì cớ đó, mà ta đã nói cùng các ngươi rằng nếu Cha chẳng ban cho, thì chẳng ai tới cùng ta được.
66 Xu waⱪittin tartip muhlisliridin heli kɵpi qekinip qiⱪip, uning bilǝn yǝnǝ mangmaydiƣan boldi.
Từ lúc ấy, có nhiều môn đồ Ngài trở lui, không đi với Ngài nữa.
67 Xunga Əysa on ikkiylǝndin: — Silǝrmu, ⱨǝm [mǝndin] ketixni halamsilǝr? — dǝp soridi.
Đức Chúa Jêsus phán cùng mười hai sứ đồ rằng: Còn các ngươi, cũng muốn lui chăng?
68 Simon Petrus uningƣa jawab ⱪilip: — I Rǝb, biz kimning yeniƣa ketǝttuⱪ? Mǝnggü ⱨayatliⱪ sɵzliri sǝndilidur! (aiōnios )
Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời của sự sống đời đời; (aiōnios )
69 Wǝ xuningƣa ixǝnduⱪ wǝ xuni bilip yǝttuⱪki, sǝn Hudaning Muⱪǝddǝs Bolƣuqisidursǝn! — dedi.
chúng tôi đã tin, và nhận biết rằng Chúa là Đấng thánh của Đức Chúa Trời.
70 Əysa ularƣa jawabǝn: — Mǝn silǝr on ikkinglarni tallidim ǝmǝsmu, biraⱪ aranglarda birsi Iblistur! — dedi
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta há chẳng đã chọn các ngươi là mười hai sứ đồ sao? Mà một người trong các ngươi là quỉ!
71 (uning bu degini Ixⱪariyotluⱪ Simonning oƣli Yǝⱨudani kɵrsǝtkǝnidi, qünki Yǝⱨuda on ikkiylǝnning biri bolƣini bilǝn, keyin ɵzigǝ satⱪunluⱪ ⱪilidu).
Vả, Ngài nói về Giu-đa con Si-môn ỗch-ca-ri-ốt; vì chính hắn là một trong mười hai sứ đồ, sau sẽ phản Ngài.