< Yǝrǝmiya 50 >
1 Pǝrwǝrdigar Yǝrǝmiya pǝyƣǝmbǝr arⱪiliⱪ Babil toƣruluⱪ, yǝni Kaldiylǝrning zemini toƣruluⱪ eytⱪan sɵz: —
Nầy là lời Đức Giê-hô-va bởi tiên tri Giê-rê-mi phán về Ba-by-lôn, về đất của người Canh-đê:
2 Əllǝr arisida xu hǝwǝrni elan ⱪilip jakarlanglar, tüƣ kɵtürünglar; jakarlanglar, uni yoxurmanglar! — «Babil ixƣal ⱪilindi; Bǝl bolsa hijalǝtkǝ ⱪalduruldi, Marduk patiparaⱪ bolup kǝtti; Babilning oyma butliri hijalǝtkǝ ⱪalduruldi, yirginqlik nǝrsiliri patiparaⱪqiliⱪⱪa qüxti!» — dǝnglar.
Hãy rao, hãy bảo cho các nước, và dựng cờ xí; hãy rao truyền đi, đừng có giấu! Hãy nói rằng: Ba-by-lôn bị bắt lấy; Bên đầy hổ thẹn; Mê-rô-đác bị kinh hãi; hình tượng nó mang xấu hổ, thần tượng nó bị phá đổ!
3 Qünki ximaldin uningƣa jǝng ⱪilmaⱪqi bolƣan bir ǝl kelidu; u uning zeminini wǝyran ⱪilidu, ⱨeqkim xu yǝrdǝ turmaydu; insan ⱨǝm ⱨaywanmu ⱪeqip ketidu, ular yoⱪ bolidu.
Vì một dân đến từ phương bắc nghịch cùng nó, làm cho đất nó ra hoang vu, không có dân ở nữa; người và súc vật đều trốn tránh, và đi mất.
4 Xu künlǝrdǝ, xu qaƣda, — dǝydu Pǝrwǝrdigar, — Israil hǝlⱪi kelidu, ular ⱨǝm Yǝⱨuda hǝlⱪi bilǝn billǝ kelidu, ular yiƣliƣan ⱨalda mengip Pǝrwǝrdigar Hudasini izdǝxkǝ kelidu.
Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó, trong kỳ đó, con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa cùng nhau trở lại, vừa đi vừa khóc, tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
5 Ular Zionning yolini soraydu, yüzlirini uningƣa ⱪaritip: «Ⱨǝrgiz untulmas mǝnggülük bir ǝⱨdǝ bilǝn ɵzimizni Pǝrwǝrdigarƣa baƣlayli» — dǝydu.
Chúng nó hướng mặt về Si-ôn, hỏi thăm về nó mà rằng: Hãy đến, liên kết với Đức Giê-hô-va bởi một giao ước đời đời sẽ không quên!
6 — Mening hǝlⱪim azƣan ⱪoylardur; ularning baⱪⱪuqiliri ularni azdurƣan, ularni taƣlarda tenitip yürgǝn; ular taƣdin dɵnggǝ kezip yürüp, ɵz aramgaⱨini untuƣandur.
Dân ta vốn là một bầy chiên lạc mất; những kẻ chăn làm cho lộn đường, để chúng nó lầm lạc trên các núi, đi từ núi qua gò, quên chỗ mình an nghỉ.
7 Ularni uqratⱪanlarning ⱨǝmmisi ularni yǝp kǝtkǝn, küxǝndiliri ular toƣruluⱪ: «Bizdǝ [bu ixlarda] ⱨeq gunaⱨ yoⱪ, qünki ular ata-bowilirining ümidi bolƣan Pǝrwǝrdigar, yǝni ⱨǝⱪⱪaniyliⱪning yaylaⱪ-turalƣusi bolƣan Pǝrwǝrdigarning aldida gunaⱨ sadir ⱪilƣan!» — degǝn.
Phàm những kẻ gặp, đều vồ nuốt chúng nó; và những kẻ nghịch chúng nó đều nói rằng: Chúng ta không đáng tội, vì chúng nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, là nơi ở của sự công bình, tức là Đức Giê-hô-va, sự trông cậy của tổ phụ chúng nó.
8 [I hǝlⱪim], Babil otturisidin ⱪeqinglar, kaldiylǝrning zeminini taxlap qiⱪinglar, padini yetǝkligüqi tekilǝrdǝk bolunglar.
Hãy trốn ra ngoài Ba-by-lôn, ra khỏi đất người Canh-đê, hãy đi như dê đực đi đầu bầy!
9 — Qünki mana, ximaliy zemindin Babilƣa ⱨujum ⱪilmaⱪqi bolƣan zor bir top uluƣ ǝllǝrni ⱪozƣaymǝn; ular ɵzlirini uningƣa ⱪarxi sǝpkǝ ⱪoxidu; xuning bilǝn Babil xu yǝrdin qiⱪⱪanlar tǝripidin ǝsirgǝ qüxidu. Ularning oⱪlirining ⱨǝmmisi batur mǝrgǝnlǝrningkidǝk bolidu; ularning ⱨeqⱪaysisi jǝngdin ⱪuruⱪ ⱪol kǝlmǝydu.
Vì nầy, ta sẽ khiến nhiều dân tộc dấy lên từ xứ phương bắc, và đến nghịch cùng Ba-by-lôn, các dân ấy sẽ dàn trận đánh Ba-by-lôn, và từ đó nó bị hãm lấy. Tên chúng nó bắn như tên của lính chiến giỏi, chẳng trở về không.
10 Kaldiyǝ bolsa olja bolidu; olja alƣan barliⱪ buliƣuqilar uningdin ⱪanaǝtlinidu, — dǝydu Pǝrwǝrdigar;
Canh-đê sẽ bị cướp lấy, phàm kẻ cướp lấy nó sẽ được no nê, Đức Giê-hô-va phán vậy.
11 — Qünki silǝr xadlanƣansilǝr, silǝr yayrap kǝtkǝnsilǝr, i mirasim bolƣan [hǝlⱪimni] bulang-talang ⱪilƣuqilar! Qünki silǝr qemǝndǝ turƣan mozaylardǝk sǝkrigǝnsilǝr, ayƣirlardǝk huxalliⱪtin kixnigǝnsilǝr!
Hỡi kẻ cướp sản nghiệp ta, vì các ngươi vui mừng hớn hở, vì các ngươi buông lung như bò cái tơ đạp lúa, reo hí như ngựa mập mạnh;
12 Əmdi ana [yurtung] zor hijalǝtkǝ ⱪaldurulidu; rǝswaqiliⱪ seni tuƣƣuqini ⱪaplaydu; mana, u ǝllǝrning daxⱪili, — bir janggal, ⱪaƣjiraⱪ yǝr wǝ qɵl-bayawan bolup ⱪalidu.
bởi vậy, mẹ các ngươi rất mang xấu hổ, kẻ đẻ các ngươi bị thẹn thuồng. Kìa, nó sẽ làm cuối cùng hàng các nước, một đồng vắng, một đất khô khan, một nơi sa mạc.
13 Pǝrwǝrdigarning ƣǝzipi tüpǝylidin, uning ⱨeq aⱨalisi bolmaydu, bǝlki toluⱪ taxliwetilgǝn bolidu; Babildin ɵtidiƣanlarning ⱨǝmmisi uning barliⱪ yara-wabaliri tüpǝylidin wǝⱨimigǝ qüxüp ux-ux ⱪilidu.
Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, nó sẽ không có người ở nữa, chỉ thành ra nơi hoang vu cả; phàm những kẻ đi qua gần Ba-by-lôn sẽ lấy làm lạ, và xỉ báng về các tai nạn nó.
14 Babilƣa jǝng ⱪilix üqün uning ǝtrapida sǝpkǝ tizilinglar, barliⱪ oⱪyaqilar; uningƣa etinglar, oⱪlarni ⱨeq ayimanglar; qünki u Pǝrwǝrdigar aldida gunaⱨ sadir ⱪilƣan.
Hỡi các ngươi là kẻ hay giương cung! hãy dàn trận nghịch cùng Ba-by-lôn chung quanh; hãy bắn nó, đừng tiếc tên: vì nó đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va.
15 Uning ǝtrapida jǝng quⱪanlirini kɵtürünglar; u tǝslim bolup ⱪol kɵtüridu; munarliri ɵrülidu, sepilliri ƣulitilidu; qünki bu Pǝrwǝrdigarning alƣan ⱪisasidur. Uningdin ⱪisas elinglar; u baxⱪilarƣa nemǝ ⱪilƣan bolsa uningƣimu xuni ⱪilinglar.
Khá kêu la nghịch cùng nó khắp tư bề. Nó đã hàng đầu, lũy nó sập xuống, tường thành nó nghiêng đổ: ấy là sự báo thù của Đức Giê-hô-va! Hãy trả thù nó: làm cho nó như nó đã làm.
16 Babildin uruⱪ teriƣuqi ⱨǝm ⱨosul waⱪtidiki orƣaⱪ salƣuqilarni yoⱪ ⱪilinglar; zulumkarning ⱪiliqining ⱪorⱪunqi tüpǝylidin bularning ⱨǝrbiri ɵz eligǝ ⱪaytip, ⱨǝrbiri ɵz ana yurtiƣa ⱪaqsun!
Hãy diệt những kẻ gieo giống trong Ba-by-lôn, cùng kẻ cầm liềm trong mùa gặt; vì sợ gươm kẻ ức hiếp, ai nấy sẽ trở về dân mình, ai nấy sẽ trốn về đất mình.
17 Israil tarⱪitiwetilgǝn ⱪoy padisidur; xirlar ularni ⱨǝydiwǝtkǝn; dǝslǝptǝ Asuriyǝning padixaⱨi ularni yǝp kǝtkǝn, ahirida bu Babil padixaⱨi Neboⱪadnǝsar uning ustihanlirini ezip ƣajiliƣan.
Y-sơ-ra-ên là một con chiên tan lạc, bị sư tử đuổi theo. Trước hết vua A-si-ri đã vồ nuốt nó; nay sau hết Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã làm tan xương nó ra.
18 Xunga samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigar — Israilning Hudasi mundaⱪ dǝydu: — Mana, Mǝn Asuriyǝning padixaⱨining yeniƣa kelip, uni jazaliƣinimdǝk, mǝn Babil padixaⱨini ⱨǝm zeminini jazalaymǝn.
Vậy nên, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và đất nó, như đã phạt vua A-si-ri.
19 Mǝn Israilni ⱪaytidin ɵz yayliⱪiƣa ⱪayturimǝn, u Karmǝl teƣida, Baxan zeminida ozuⱪlinidu, uning jeni Əfraim teƣi üstidǝ ⱨǝm Gilead zeminida ⱪanaǝtlinidu.
Đoạn ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về trong đồng cỏ nó. Nó sẽ ăn cỏ trên Cạt-mên và Ba-san, lòng nó sẽ được no nê trên các đồi Eùp-ra-im và Ga-la-át.
20 Xu künlǝrdǝ, xu qaƣda, — dǝydu Pǝrwǝrdigar, — Israilning ⱪǝbiⱨliki izdǝlsǝ, ⱨeq tepilmaydu; Yǝⱨudaning gunaⱨliri izdǝlsǝ, ⱨeq tepilmaydu; qünki Mǝn ⱪaldurƣan ⱪaldisini kǝqürüm ⱪilimǝn.
Đức Giê-hô-va phán: Trong những ngày đó bấy giờ, người ta sẽ tìm sự gian ác của Y-sơ-ra-ên, mà không có nữa; tìm tội lỗi của Giu-đa, mà chẳng thấy nữa đâu; vì ta sẽ tha tội cho những kẻ trong vòng chúng nó mà ta đã chừa lại.
21 — Merataimning zeminiƣa zǝrb bilǝn jǝng ⱪilixⱪa, Pekodta turuwatⱪanlarƣimu jǝng ⱪilixⱪa qiⱪinglar; ularni wǝyran ⱪilinglar, ⱪalduⱪinimu ⱨalak ⱪilinglar, — dǝydu Pǝrwǝrdigar, — Mǝn nemini sanga buyruƣan bolsam xuni ada ⱪilinglar.
Đức Giê-hô-va phán: Hãy lên đánh đất Mê-ra-tha-im, và dân cư Phê-cốt; hãy giết và diệt hết theo sau nó, và làm y như mọi điều ta đã dặn ngươi!
22 Jǝng sadaliri [Babil] zeminida anglinidu; u zor ⱨalakǝtning sadasidur!
Tiếng kêu về giặc giã vang động trong đất; tai vạ lớn lắm.
23 Əslidǝ pütkül yǝr yüzini urƣan bazƣan xu dǝrijidǝ sundurup qeⱪiwetildiƣu! Babil ǝllǝr arisida xunqǝ bir dǝⱨxǝt basⱪuqi bolup qiⱪⱪantiƣu!
Cái búa của cả đất đã bị bẻ gãy là dường nào! Ba-by-lôn đã trở nên hoang vu giữa các nước là dường nào!
24 Mǝn sanga tuzaⱪ ⱪurdum; sǝn, i Babil, ⱨeq bilmǝyla uningƣa tutuldung; Pǝrwǝrdigar bilǝn ⱪarxilixixing tüpǝylidin sǝn tepilip tutuldung.
Hỡi Ba-by-lôn, ta đã gài bẫy, và ngươi đã mắc vào mà không biết! Ngươi đã bị tìm và bắt được, vì đã tranh cạnh cùng Đức Giê-hô-va.
25 Pǝrwǝrdigar ⱪoral ambirini eqip, ƣǝzipidiki ⱪorallirini elip qiⱪardi; qünki samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Rǝb Pǝrwǝrdigar kaldiylǝrning zeminida ⱪilidiƣan ixi bardur.
Đức Giê-hô-va đã mở kho khí giới mình, lấy binh khí của sự thạnh nộ ra; vì Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, có việc phải làm ra trong đất người Canh-đê.
26 Uning ⱨǝr qǝt-qǝtliridin kelip uningƣa ⱨujum ⱪilinglar, ambarlirini eqiwetinglar; ɵnqilǝrni dɵwiligǝndǝk uni harabǝ-harabǝ ⱪilip dɵwilǝp wǝyran ⱪilinglar; uning ⱨeqnemisini ⱪaldurmanglar!
Hãy đến từ bờ cõi rất xa nghịch cùng nó; hãy mở kho tàng nó ra, chất lên như đống, hãy diệt hết cả, đừng để lại chút gì!
27 Uning barliⱪ torpaⱪlirini ɵltürüwetinglar! Ular soyuluxⱪa qüxsun! Ularning ⱨaliƣa way! Qünki ularning küni, yǝni jazalinix waⱪti yetip kǝldi.
Hãy giết mọi bò đực nó, đem xuống hàng thịt! Khốn nạn cho chúng nó, vì ngày chúng nó đã đến, ấy là kỳ thăm phạt chúng nó!
28 Anglanglar! Zionƣa kelip, Pǝrwǝrdigar Hudayimizning ⱪisasini, yǝni ibadǝthanisi üqün alƣan ⱪisasini jakarlaydiƣan, Babil zeminidin ⱪaqⱪan panaⱨ izdigüqilǝrning awazini anglanglar!
Hãy nghe tiếng kêu của kẻ đi trốn, của những kẻ thoát khỏi đất Ba-by-lôn, đặng rao ra trong Si-ôn sự báo thù của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, sự báo thù về đền thờ Ngài.
29 Babilƣa ⱨujum ⱪilix üqün oⱪyaqilarni, yǝni barliⱪ kamanni ǝgküqilǝrni qaⱪiringlar; Babilning ǝtrapida bargaⱨ ⱪurup ⱪorxiwelinglar; ⱨeqkimni ⱪaqⱪuzmanglar; ɵz ⱪilmixini ɵz bexiƣa qüxürünglar; u nemilǝrni ⱪilƣan bolsa, uningƣimu xuni ⱪilinglar; qünki u Pǝrwǝrdigarƣa — Israildiki Muⱪǝddǝs Bolƣuqiƣa ⱪarxi kɵrǝnglǝp kǝtkǝnidi.
Hãy gọi hết thảy những kẻ cầm cung, mọi người giương cung đến đánh Ba-by-lôn; đóng trại chung quanh nó; đừng để cho ai thoát khỏi! Hãy theo công việc nó mà báo trả, làm cho nó trọn như nó đã làm; vì nó lên mình kiêu ngạo nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
30 Xunga uning yigitliri koqilirida yiⱪilidu; xu künidǝ uning barliⱪ jǝngqi palwanliri yoⱪitilidu, — dǝydu Pǝrwǝrdigar.
Vậy nên, bọn trai trẻ nó sẽ ngã trên các đường phố, và trong ngày đó, những người đánh giặc của nó sẽ phải nín lặng, Đức Giê-hô-va phán vậy.
31 Mana, Mǝn sanga ⱪarxidurmǝn, i kɵrǝnglǝp kǝtkuqi, — dǝydu samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigar, — qünki sening kününg, yǝni Mǝn yeningƣa yeⱪin kelip jazalaydiƣan kün yetip kǝldi;
Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán: Hỡi dân kiêu ngạo, nầy, ta hờn giận ngươi: vì ngày ngươi đã đến, ấy là kỳ ta sẽ thăm phạt ngươi.
32 kɵrǝnglǝp kǝtkuqi putlixip yiⱪilidu, ⱨeqkim uni ⱪaytidin yɵlǝp turƣuzmaydu; bǝrⱨǝⱪ, Mǝn uning xǝⱨǝrlirigǝ ot yaⱪimǝn, u uning ǝtrapidikilǝrning ⱨǝmmisini kɵydürüp yutup ketidu.
Kẻ kiêu ngạo sẽ xiêu tó, vấp ngã, không ai dựng lại. Ta sẽ đốt lửa nơi các thành nó, thiêu nuốt mọi sự chung quanh.
33 Samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigar — Israilning Hudasi mundaⱪ dǝydu: — Israillar Yǝⱨudalar bilǝn billǝ ezilip horluⱪni kɵrgǝn; ularni ǝsir ⱪilƣanlar ularni ⱪattiⱪ ⱪamap tutⱪanidi; ularni ⱪoyuwetixni rǝt ⱪilƣan.
Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Con cái Y-sơ-ra-ên và con cái Giu-đa thảy cùng nhau chịu hà hiếp. Phàm những kẻ bắt chúng nó đi làm phu tù đều giữ chúng nó lại, chẳng khứng thả ra.
34 Lekin ularning Ⱨǝmjǝmǝt-Ⱪutⱪuzƣuqisi küqlüktur; samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigar ularning dǝwasini ǝstayidilliⱪ bilǝn soraydu, xuning bilǝn U ularning zeminiƣa aramliⱪ beridu, Babildikilǝrgǝ aramsizliⱪ yǝtküzidu.
Đấng Cứu chuộc chúng nó là mạnh mẽ, danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân. Ngài sẽ đối nại việc chúng nó chắc chắn, đặng cho cả đất được yên nghĩ, và làm bối rối dân cư Ba-by-lôn.
35 Kaldiylǝr üstigǝ, Babilda turuwatⱪanlar üstigǝ ⱨǝmdǝ Babilning ǝmirliri wǝ danixmǝnliri üstigǝ ⱪiliq qüxidu, — dǝydu Pǝrwǝrdigar;
Đức Giê-hô-va phán: Gươm dao ở trên người Canh-đê, trên dân cư Ba-by-lôn, trên các quan trưởng và các người khôn ngoan nó.
36 ⱪiliq palqilar üstigǝ qüxkǝndǝ, ular ⱨamaⱪǝt-ǝhmǝⱪlǝrdǝk kɵrünidu; ⱪiliq ularning palwanliri üstigǝ qüxüp, ular patiparaⱪ bolup ketidu;
Gươm dao ở trên những người khoe khoang, chúng nó sẽ nên người dại dột! Gươm dao ở trên những kẻ mạnh mẽ, chúng nó sẽ bị kinh khiếp!
37 ⱪiliq ularning atliri üstigǝ, jǝng ⱨarwiliri üstigǝ, ularning sǝpliridǝ turƣan barliⱪ yat lǝxkǝrlǝr üstigǝ qüxidu, ular ayallardǝk bolidu; ⱪiliq hǝziniliri üstigǝ qüxidu, ular bulang-talang ⱪilinidu.
Gươm dao ở trên những xe, ngựa, cùng mọi dân lộn giống giữa nó, chúng nó sẽ trở nên như đàn bà! Gươm dao ở trên những kho tàng nó đều bị cướp giựt!
38 Ⱪurƣaⱪqiliⱪ ularning suliri üstigǝ qüxüp, ular ⱪurup ketidu; bularning sǝwǝbi zemini oyma butlarƣa tolup, ular ⱪorⱪunqluⱪ mǝbudlar tüpǝylidin tǝlwixip kǝtkǝn.
Sự hạn hán ở trên các dòng nước nó đều bị cạn khô! Vì ấy là xứ những tượng chạm, chúng nó vì thần tượng mà điên cuồng.
39 Xunga qɵldiki janiwarlar wǝ qilbɵrilǝr birliktǝ xu yǝrdǝ turidu; xu yǝrdǝ ⱨuwⱪuxlar makanlixidu; u mǝnggügǝ adǝmzatsiz bolidu, dǝwrdin-dǝwrgǝ ⱨeq aⱨalilik bolmaydu.
Vậy nên, những thú rừng nơi sa mạc sẽ cùng chó rừng làm ở tại đó, những chim đà cũng choán làm chỗ ở mình; Ba-by-lôn sẽ không hề có dân cư nữa, vả từ đời nầy đến đời kia người ta sẽ không ở đó.
40 Huda Sodom wǝ Gomorrani ǝtrapidiki xǝⱨǝrliri bilǝn billǝ ɵrüwǝtkinidǝk, ⱨeqkim xu yǝrdǝ turmaydu, insan baliliri xu yǝrdǝ olturaⱪlaxmaydu, — dǝydu Pǝrwǝrdigar.
Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ giống như Sô-đôm, Gô-mô-rơ, và các thành lân cận, khi Đức Chúa Trời hủy diệt các thành ấy; sẽ không có dân ở nữa, chẳng một con người nào đến trú ngụ đó.
41 — Mana, ximaldin bir hǝlⱪ, uluƣ bir ǝl qiⱪip kelidu; yǝr yüzining qǝt-qǝtliridin nurƣun padixaⱨlar ⱪozƣilidu.
Nầy, một dân đến từ phương bắc; một nước lớn và nhiều vua từ các phương đất rất xa bị xui giục.
42 Ular oⱪya ⱨǝm nǝyzini tutup ⱪorallinidu; ular wǝⱨxiy, ⱨeq rǝⱨim kɵrsǝtmǝydiƣan bolidu; atliriƣa mingǝndǝ ularning awazliri dengizdǝk xawⱪunlaydu; ular jǝnggǝ atlatⱪan adǝmlǝrdǝk sǝp-sǝp bolup, sanga ⱨujum ⱪilmaⱪqi, i Babil ⱪizi!
Họ cầm cung và giáo, hung dữ chẳng có lòng thương xót. Tiếng họ giống như biển gầm; hỡi con gái Ba-by-lôn, họ đã cỡi ngựa mà đến, dàn trận để đánh ngươi.
43 Babil padixaⱨi ularning hǝwirini anglapla ⱪolliri titrǝp boxap ketidu; ƣǝm-ⱪayƣu uni tutidu, tolƣaⱪⱪa qüxkǝn ayaldǝk azablar uni besiwalidu.
Vua Ba-by-lôn đã nghe tin đó, thì tay người trở nên rả rời; sự buồn rầu bắt lấy người như cơn đau của người đàn bà đang đẻ.
44 Mana, Iordan dǝryasi boyidiki qawar-qatⱪalliⱪtin qiⱪip, daim eⱪip turidiƣan xu sular boyidiki yaylaⱪtiki ⱪoylarni tarⱪatⱪan bir xirdǝk Mǝn Babildikilǝrni bǝdǝr ⱪaqⱪuzimǝn. Əmdi kimni halisam Mǝn uni uning üstigǝ tiklǝymǝn; qünki Manga kim tǝng kelǝlǝydu? Kim Meningdin ⱨesab elixⱪa Meni qaⱪiralaydu? Mening aldimda turalaydiƣan pada baⱪⱪuqi barmu?
Nầy, kẻ thù như sư tử lên từ các rừng rậm rợp của Giô-đanh mà nghịch cùng chỗ ở kiên cố. Thình lình, ta sẽ làm cho người Canh-đê trốn khỏi, và lập người mà ta đã chọn cai trị nó. Vì, ai giống như ta? ai sẽ định kỳ cho ta? ai là kẻ chăn đứng được trước mắt ta?
45 Xunga Pǝrwǝrdigarning Babilni jazalaxtiki mǝⱪsitini, xuningdǝk kaldiylǝrning zeminini jazalax niyitini anglanglar: Ularning kiqiklirimu tartip epketilidu; bǝrⱨǝⱪ, ⱪilmixliri tüpǝylidin [Pǝrwǝrdigar] uning yayliⱪini wǝyranǝ ⱪilidu.
Vậy hãy nghe mưu Đức Giê-hô-va đã toan nghịch cùng Ba-by-lôn, và ý định Ngài đã lập nghịch cùng đất người Canh-đê. Thật, những con nhỏ trong bầy chúng nó sẽ bị kéo đi, làm cho nơi ở chúng nó trở nên hoang vu!
46 Babilning ixƣal ⱪilinƣanliⱪini anglap yǝr yüzi tǝwrinip ketidu; uning nalǝ-pǝryadi barliⱪ ǝllǝrgiqǝ anglinidu.
Nghe tiếng Ba-by-lôn bị bắt lấy, đất đều rúng động, và có tiếng kêu nghe ra giữa các nước.