< Ibraniylarƣa 12 >
1 Əmdi ǝtirapimizda guwaⱨqilar xunqǝ qong buluttǝk bizni oruwalƣaqⱪa, ⱨǝrhil eƣir yük ⱨǝm bizgǝ asanla qirmixiwalidiƣan gunaⱨni qɵrüp taxlap, aldimizƣa ⱪoyulƣan yügürüx yolini qidamliⱪ bilǝn besip yügürǝyli; buningda kɵzimizni etiⱪadimizning Yol Baxliƣuqisi wǝ Takamullaxturƣuqisi bolƣan Əysaƣa tikǝyli. U Ɵzini kütkǝn huxalliⱪ üqün kresttiki azabⱪa bǝrdaxliⱪ bǝrdi ⱨǝm uningda bolƣan ⱨaⱪarǝtkǝ pisǝnt ⱪilmidi. Xuning bilǝn U Hudaning tǝhtining ong tǝripidǝ olturƣuzuldi.
Như thế, vì chung quanh ta có những rừng người chứng kiến, chúng ta hãy kiên nhẫn chạy xong cuộc đua đang tham dự, sau khi cất bỏ các chướng ngại và tội lỗi dễ vướng chân.
Chúng ta cứ nhìn chăm Chúa Giê-xu, là căn nguyên và cứu cánh của đức tin. Nhằm vào niềm vui tối hậu, Chúa đã kiên nhẫn vác cây thập tự, xem thường sỉ nhục và hiện nay ngồi bên phải ngai Đức Chúa Trời.
3 Kɵnglünglǝrning ⱨerip sowup kǝtmǝsliki üqün, gunaⱨkarlarning xunqǝ ⱪattiⱪ horlaxliriƣa bǝrdaxliⱪ Bǝrgüqini kɵngül ⱪoyup oylanglar.
Anh chị em hãy ghi nhớ gương kiên nhẫn của Chúa trước những cuộc tiến công vũ bão của bọn người tội lỗi, để khỏi nản lòng.
4 Gunaⱨⱪa ⱪarxi kürǝxlǝrdǝ tehi ⱪan aⱪⱪuzux dǝrijisigǝ berip yǝtmidinglar.
Anh chị em chiến đấu với tội ác dù gian khổ đến đâu cũng chưa phải đổ máu như Ngài.
5 Hudaning silǝrgǝ Ɵz pǝrzǝntlirim dǝp jekilǝydiƣan [muⱪǝddǝs yazmilardiki] munu sɵzlirini untudunglar: — «I oƣlum, Pǝrwǝrdigarning tǝrbiyisigǝ sǝl ⱪarima, Əyiblǝnginingdǝ kɵnglüng sowup kǝtmisun,
Anh chị em đã quên lời khuyên nhủ của Chúa, chẳng khác lời cha khuyên con: “Con ơi, đừng xem thường sự sửa dạy của Chúa, khi Chúa quở trách, con đừng chán nản.
6 Qünki Pǝrwǝrdigar sɵyginigǝ tǝrbiyǝ beridu, Mening oƣlum dǝp ⱪobul ⱪilƣanlarning ⱨǝmmisini dǝrrilǝydu».
Vì Chúa Hằng Hữu sửa dạy người Ngài yêu thương, và dùng roi vọt sửa trị như con ruột.”
7 Azab qǝkkininglarni Hudaning tǝrbiyisi dǝp bilip, uningƣa bǝrdaxliⱪ beringlar. Qünki silǝrning tǝrbiyǝ elixinglarning ɵzi Hudaning silǝrni oƣlum dǝp muamilǝ ⱪilƣanliⱪini kɵrsitidu. Ⱪaysi pǝrzǝnt atisi tǝripidin tǝrbiyilǝnmǝydu?
Anh chị em được sửa dạy vì Đức Chúa Trời coi anh chị em là con ruột. Có người con nào mà cha không sửa dạy?
8 Əmdi [Hudaning] tǝrbiyilixidǝ ⱨǝrbir pǝrzǝntining ɵz ülüxi bar; lekin bu ix silǝrdǝ kǝm bolsa ⱨǝⱪiⱪiy oƣulliridin ǝmǝs, bǝlki ⱨaramdin bolƣan pǝrzǝnti bolup qiⱪisilǝr.
Nếu anh chị em không được sửa dạy như tất cả con cái Chúa thì chưa phải con thật của Ngài.
9 Uning üstigǝ ⱨǝmmimizning ɵzimizgǝ tǝrbiyǝ bǝrgǝn ǝt jǝⱨǝttiki atilirimiz bar, biz ularnimu ⱨɵrmǝtlǝp kǝlduⱪ. Xundaⱪ ikǝn, roⱨlarning atisiƣa tehimu itaǝt ⱪilmamduⱪ? Xundaⱪta ⱨayatimiz yaxnimamdu?
Cha thể xác sửa dạy vẫn được ta tôn kính. Ta lại càng nên vâng phục Cha thiên thượng để được sức sống dồi dào.
10 Ət jǝⱨǝttiki atilirimiz bǝrⱨǝⱪ pǝⱪǝt ɵzi muwapiⱪ kɵrgǝn yol boyiqǝ azƣinǝ waⱪit bizni tǝrbiyiligǝn. Lekin U bolsa bizgǝ paydiliⱪ bolsun dǝp, pak-muⱪǝddǝslikidin muyǝssǝr boluximiz üqün tǝrbiyilǝydu.
Cha thể xác sửa dạy một thời gian ngắn, cố gắng giúp ích ta. Nhưng Cha thiên thượng sửa dạy vì lợi ích đời đời, để ta trở nên thánh khiết như Ngài.
11 Əmdi ⱪattiⱪ tǝrbiyǝ berilgǝn waⱪtida adǝmni hux ⱪilmaydu, ǝksiqǝ adǝmni ⱪayƣuƣa qɵmdüridu; biraⱪ buning bilǝn tüzǝlgǝnlǝrgǝ u keyin ⱨǝⱪⱪaniyliⱪtin qiⱪⱪan tinq-hatirjǝmlikning mewisini beridu.
Người bị sửa trị lúc đầu chỉ thấy đau buồn chứ chẳng vui sướng gì; nhưng về sau mới thấy kết quả tốt đẹp là tâm hồn bình an và nếp sống thánh thiện, công chính ngày càng tăng trưởng.
12 Xuning üqün, «Telip sanggiliƣan ⱪolunglarni, zǝiplixip kǝtkǝn tizinglarni ruslanglar»
Vậy anh chị em hãy duỗi thẳng bàn tay mỏi mệt và đầu gối tê liệt.
13 wǝ «aⱪsaⱪ»larning pükülüp ⱪalmay, bǝlki xipa tepixi üqün pütliringlarni tüz yollarda mangdurunglar.
Hãy làm đường thẳng cho chân anh chị em đi để người què khỏi lạc đường, lại còn được chữa lành.
14 Barliⱪ kixilǝr bilǝn inaⱪ ɵtüxkǝ wǝ pak-muⱪǝddǝs yaxaxⱪa intilinglar; muⱪǝddǝs bolmiƣan kixi ⱨǝrgiz Rǝbni kɵrǝlmǝydu.
Hãy cố gắng sống hòa hảo với mọi người và đeo đuổi con đường thánh hóa vì nếu không thánh hóa không ai được thấy Đức Chúa Trời.
15 Oyƣaⱪ turunglarki, ⱨeqkim Hudaning meⱨir-xǝpⱪitidin mǝⱨrum ⱪalmisun; aranglarda silǝrgǝ ix tapⱪuzup silǝrni kɵydüridiƣan, xundaⱪla kɵp adǝmlǝrni bulƣap napak boluxⱪa sǝwǝb bolidiƣan birǝr ɵq-adawǝt yiltizi ünmisun.
Hãy đề cao cảnh giác để khỏi trật phần ơn phước của Đức Chúa Trời. Đừng để điều cay đắng đâm rễ trong anh chị em, gây trở ngại và làm hoen ố nhiều người.
16 Aranglarda ⱨeqbir buzuⱪluⱪ ⱪilƣuqi yaki ɵzining tunji oƣulluⱪ ⱨoⱪuⱪini bir wah tamaⱪⱪa setiwǝtkǝn Əsawdǝk ihlassiz kixi bolmisun.
Đừng ai gian dâm, hoặc phàm tục như Ê-sau, người đã bán quyền trưởng nam chỉ vì miếng ăn.
17 Qünki silǝrgǝ mǝlumki, Əsaw keyin [atisining] hǝyrlik duasini elixni oyliƣan bolsimu, xundaⱪla uningƣa intilip kɵz yaxlirini eⱪitip yalwurƣan bolsimu, u [bu ixlarni orniƣa] [kǝltüridiƣan] towa ⱪilix yolini tapalmay, rǝt ⱪilindi.
Như anh chị em đã biết, về sau Ê-sau muốn hưởng phước lành nhưng bị khước từ. Đã quá trễ cho sự ăn năn, dù khóc lóc van xin cũng không thể làm cha mình đổi ý.
18 Qünki silǝr ⱪol bilǝn tutⱪili bolidiƣan, yalⱪunlap ot yenip turuwatⱪan ⱨǝmdǝ sürlük bulut, ⱪarangƣuluⱪ wǝ ⱪara ⱪuyun ⱪapliƣan axu taƣⱪa kǝlmidinglar —
Anh chị em không phải đến gần núi Si-nai đang cháy rực, hoặc đến chốn tối tăm, nơi tử địa hay chỗ gió gào.
19 (u jayda kanay sadasi bilǝn sɵzligǝn awaz yǝtküzülgǝndǝ, bularni angliƣanlar: «Bizgǝ yǝnǝ sɵz ⱪilinmisun!» dǝp [Hudaƣa] yalwuruxti;
Anh chị em cũng không nghe tiếng loa vang hay tiếng nói kinh khiếp đến nỗi ai nghe cũng xin đừng nói nữa.
20 qünki ular ⱪilinƣan ǝmrni kɵtürǝlmidi. «Egǝr bu taƣⱪa ⱨǝtta birǝr ⱨaywanning ayiƣi tǝgsimu, qalma-kesǝk ⱪilip ɵltürülsun» [dǝp tapilanƣanidi];
Vì người Ít-ra-ên không chịu đựng nổi lời cảnh cáo: “Dù thú vật đụng đến núi này cũng bị ném đá.”
21 u kɵrünüx xundaⱪ ⱪorⱪunqluⱪ idiki, Musamu: «Bǝk ⱪattiⱪ ⱪorⱪup ƣal-ƣal titrǝp kǝttim» degǝnidi).
Quang cảnh trên núi ấy rùng rợn đến nỗi Môi-se phải nhìn nhận: “Tôi đã khiếp sợ và run cầm cập.”
22 — Silǝr bǝlki Zion teƣiƣa, yǝni mǝnggü ⱨayat Hudaning xǝⱨiri — ǝrxtiki Yerusalemƣa, tümǝnligǝn pǝrixtilǝrgǝ,
Nhưng anh chị em đã đến gần núi Si-ôn, gần thành của Đức Chúa Trời Hằng Sống, gần thiên quốc Giê-ru-sa-lem, gần hàng triệu thiên sứ.
23 isimliri ǝrxtǝ pütülgǝn tunji tuƣulƣanlarning ⱨeyt-mǝrikǝ huxalliⱪida jǝm ⱪilinƣan jamaitigǝ, ⱨǝmmǝylǝnning soraⱪqisi Hudaƣa, takamullaxturulƣan ⱨǝⱪⱪaniy kixilǝrning roⱨliriƣa
Anh em đến gần đoàn thể và giáo hội của các con trưởng được ghi danh vào sổ trên trời, gần Đức Chúa Trời là Thẩm Phán Tối Cao của nhân loại, gần linh hồn các người công chính được trọn lành.
24 wǝ yengi ǝⱨdining wasitiqisi Əysaƣa, xundaⱪla ⱨǝm Uning sepilgǝn ⱪeniƣa kǝldinglar. Bu ⱪan Ⱨabilningkidin ǝwzǝl sɵz ⱪilidu.
Anh em đã đến gần Chúa Giê-xu là Đấng Trung Gian của giao ước mới giữa Đức Chúa Trời và dân Ngài, và gần máu rưới ra, là máu có năng lực cứu người và biện hộ hùng hồn hơn máu của A-bên.
25 Bu sɵzni ⱪilƣuqini rǝt ⱪilmasliⱪinglar üqün diⱪⱪǝt ⱪilinglar. Qünki yǝr yüzidǝ ɵzlirigǝ wǝⱨiy yǝtküzüp agaⱨlandurƣuqini rǝt ⱪilƣanlar jazadin ⱪeqip ⱪutulalmiƣan yǝrdǝ, ǝrxtǝ bizni agaⱨlandurƣuqidin yüz ɵrüsǝk, ⱨalimiz tehimu xundaⱪ bolmamdu?
Anh chị em hãy giữ mình, đừng từ khước tiếng gọi của Chúa. Nếu người xưa khước từ lời cảnh cáo dưới đất còn không thoát khỏi trừng phạt thì chúng ta chạy đâu cho thoát một khi khước từ tiếng cảnh cáo từ trời?
26 Əmdi xu qaƣda Hudaning awazi zeminni tǝwritiwǝtkǝnidi; lekin ǝmdi U: «Ɵzüm yǝnǝ bir ⱪetim zeminnila ǝmǝs, asmannimu tǝwritimǝn» dǝp wǝdǝ ⱪildi.
Lúc ấy, tiếng Chúa trên núi Si-nai đã làm rúng chuyển cả mặt đất. Ngày nay, Chúa lại hứa: “Lần sau, Ta sẽ làm rúng chuyển cả đất lẫn trời.”
27 «Yǝnǝ bir ⱪetim» degǝn bu sɵz tǝwritilidiƣanlarning, yǝni yaritilƣan nǝrsilǝrning tǝwritilixi bilǝn yoⱪitilidiƣanliⱪini, tǝwrǝtkili bolmaydiƣan nǝrsilǝrning mǝnggü muⱪim bolidiƣanliⱪidin ibarǝt mǝnini bildüridu.
Câu ấy xác nhận những gì hay rúng chuyển sẽ bị đào thải, và những gì không rúng chuyển sẽ tồn tại.
28 Xuning üqün, tǝwrǝtkili bolmaydiƣan bir padixaⱨliⱪⱪa muyǝssǝr bolup, meⱨir-xǝpⱪǝtni qing tutup bu arⱪiliⱪ ihlasmǝnlik wǝ ǝyminix-ⱪorⱪunq bilǝn Hudani hursǝn ⱪilidiƣan ibadǝtlǝrni ⱪilayli.
Đã thuộc về một nước bền vững, tồn tại đời đời, chúng ta hãy ghi ân, phục vụ Chúa với lòng nhiệt thành, kính sợ để Chúa vui lòng.
29 Qünki Hudayimiz ⱨǝmmini yǝwǝtküqi bir ottur.
Vì Đức Chúa Trời chúng ta là một ngọn lửa thiêu đốt.