< Ⱪanun xǝrⱨi 9 >

1 Angla, i Israil! Sǝn bügün ɵzüngdin qong wǝ küqlük ǝllǝrgǝ igǝ bolux üqün, sepilliri asmanƣa taⱪixidiƣan qong xǝⱨǝrlǝrni igilǝx üqün, Anakiylarni ⱪoƣlap qiⱪirix üqün Iordan dǝryasidin ɵtisǝn (sǝn ularni bilisǝn, ular toƣruluⱪ «kim Anakiylar aldida turalisun!» dǝp angliƣansǝn).
“Xin anh em chú ý! Đã đến ngày anh em vượt Sông Giô-đan, sang chiếm đóng những nước lớn và mạnh hơn chúng ta. Đó là những nước có những thành lũy kiên cố, cao ngất,
2
có những giống dân khổng lồ là con cháu của A-na-kim, nổi tiếng vô địch.
3 Sǝn bügünki kündǝ xuni bilip ⱪoyƣinki, sening aldingda mangƣuqi Pǝrwǝrdigar Hudayingning Ɵzidur, U yalmap yutⱪuqi ottur; u muxu ǝllǝrni ⱨalak ⱪilidu, aldingda ularni tezdin yiⱪitidu; sǝn ularning tǝwǝlikini igilǝp, Pǝrwǝrdigar sanga eytⱪandǝk ularni tezdin yoⱪitisǝn.
Tuy nhiên, Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, sẽ đi trước anh em. Như một ngọn lửa thiêu hủy, Ngài sẽ trấn áp, tiêu diệt họ, để anh em chinh phục và đuổi họ đi nhanh chóng như Chúa Hằng Hữu đã hứa.
4 Pǝrwǝrdigar ularni aldingdin ⱨǝydigǝndǝ sǝn kɵnglüngdǝ: «Ⱨǝⱪⱪaniyliⱪim sǝwǝbidin Pǝrwǝrdigar meni zeminni igilǝx üqün uningƣa yetǝklǝp kirdi» demigin; bǝlki xu ǝllǝrning rǝzilliki tüpǝylidin Pǝrwǝrdigar sening aldingda ularni tǝǝlluⱪatidin mǝⱨrum ⱪilidu.
Sau khi Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, đuổi họ đi rồi, anh em đừng nghĩ rằng: ‘Chúa Hằng Hữu đem chúng ta vào chiếm đất này vì chúng ta là người công chính.’ Không, chính vì các dân tộc kia quái ác nên Ngài đuổi họ đi đó thôi.
5 Sǝn ularning zeminiƣa kirip uni igilixing sening ⱨǝⱪⱪaniy bolƣanliⱪingdin yaki kɵnglüngning durusluⱪidin ǝmǝs, bǝlki bu ǝllǝrning rǝzillikidin wǝ Pǝrwǝrdigar ata-bowiliring Ibraⱨim, Isⱨaⱪ wǝ Yaⱪupⱪa ⱪǝsǝm ⱪilƣan sɵzigǝ ǝmǝl ⱪilix üqünmu Pǝrwǝrdigar Hudaying ularni sening aldingda tǝǝlluⱪatidin mǝⱨrum ⱪilidu.
Không phải vì sự công chính của anh em, mà vì sự gian ác của các dân ấy, nên Ngài đuổi họ ra, cho anh em chiếm đất họ, và cũng vì lời Ngài hứa với các tổ tiên Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.
6 Əmdi xuni bilip ⱪoyƣinki, Pǝrwǝrdigar Hudaying bu yahxi zeminni sanga miras ⱪilƣini sening ⱨǝⱪⱪaniyliⱪingdin ǝmǝs, qünki sǝn ǝsli boyni ⱪattiⱪ bir hǝlⱪsǝn.
Đúng thế, không phải Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, cho anh em vùng đất tốt tươi vì anh em là người công chính. Không, anh em chỉ là những người ương ngạnh.”
7 Əmdi sening qɵl-bayawanda Pǝrwǝrdigar Hudayingni ⱪandaⱪ ƣǝzǝplǝndürgǝnlikingni esingdǝ tutⱪin — Uni untuma. Sǝn Misir zeminidin qiⱪⱪan kündin beri taki bu yǝrgǝ kǝlgüqǝ Pǝrwǝrdigarƣa asiyliⱪ ⱪilip kǝlding.
“Anh em còn nhớ—đừng bao giờ quên điều này—anh em đã cả gan khiêu khích Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, trong hoang mạc. Từ ngày ra khỏi Ai Cập cho đến nay, anh em vẫn thường nổi loạn chống Ngài.
8 Silǝr Ⱨorǝb teƣida Pǝrwǝrdigarni ƣǝzǝplǝndürgǝn wǝ Pǝrwǝrdigar silǝrgǝ aqqiⱪlinip, silǝrni ⱨalak ⱪilmaⱪqi boldi.
Lúc ở Núi Hô-rếp, khi anh em khiêu khích Chúa Hằng Hữu quá độ, anh em suýt bị Ngài tiêu diệt.
9 Xu qaƣda mǝn tax tahtaylarni, yǝni Pǝrwǝrdigar silǝr bilǝn tüzgǝn ǝⱨdǝ tahtaylirini tapxuruwelix üqün taƣⱪa qiⱪⱪanidim; mǝn taƣda ⱪiriⱪ keqǝ-kündüz turdum (mǝn nǝ tamaⱪ yemidim, nǝ su iqmidim);
Đó là lúc tôi lên núi để nhận hai bảng đá, là giao ước Chúa Hằng Hữu đã lập với anh em. Tôi ở lại trên núi bốn mươi ngày đêm, không ăn không uống.
10 Xuning bilǝn Pǝrwǝrdigar manga Ɵz barmiⱪi bilǝn pütkǝn ikki tahtayni tapxurdi; ularda Pǝrwǝrdigar taƣda ot iqidǝ silǝrgǝ sɵzligǝn qaƣda, jamaǝt yiƣilƣan küni eytⱪan barliⱪ sɵzlǝr pütülgǝnidi.
Chúa Hằng Hữu trao cho tôi hai bảng đá, trên đó chính Đức Chúa Trời dùng ngón tay viết những lời Ngài đã nói với toàn thể anh em từ trong đám lửa trên núi, vào ngày hội hôm đó.
11 Wǝ xundaⱪ boldiki, ⱪiriⱪ keqǝ-kündüz ɵtüp, Pǝrwǝrdigar manga ikki tax tahtay, yǝni ǝⱨdǝ tahtaylirini bǝrdi.
Cuối thời gian bốn mươi ngày đêm ấy. Chúa Hằng Hữu đã trao cho tôi hai bảng đá, đó là giao ước vừa kết lập.
12 Wǝ Pǝrwǝrdigar manga: «Ornungdin turƣin, muxu yǝrdin qüxkin; qünki sǝn Misirdin qiⱪarƣan hǝlⱪing ɵzlirini bulƣidi; ular tezla Mǝn ularƣa tapiliƣan yoldin qǝtnǝp ɵzlirigǝ ⱪuyma bir butni yasidi» dedi.
Chúa Hằng Hữu phán bảo tôi: ‘Con xuống núi nhanh lên, vì đoàn dân con đem từ Ai Cập đến đây đã trở nên đồi bại rồi, họ đã vội vàng từ bỏ chính đạo Ta truyền cho, đúc cho mình một tượng thần.’
13 Pǝrwǝrdigar manga sɵz ⱪilip: «Mǝn bu hǝlⱪni kɵrüp yǝttim; mana, u boyni ⱪattiⱪ bir hǝlⱪtur.
Chúa Hằng Hữu cũng phán với tôi: ‘Ta đã rõ dân này, họ thật là ương ngạnh.
14 Meni tosma, Mǝn ularni yoⱪitimǝn, ularning namini asmanning tegidin ɵqürüwetimǝn wǝ xundaⱪ ⱪilip, seni ulardin qong wǝ uluƣ bir hǝlⱪ ⱪilimǝn» — dedi.
Để Ta diệt họ, xóa tên họ dưới trời, rồi làm cho con thành ra một dân mạnh hơn, đông hơn họ.’
15 Mǝn burulup, taƣdin qüxtüm; taƣ bolsa ot bilǝn yalⱪunlawatatti; ikki ǝⱨdǝ tahtiyi ikki ⱪolumda idi.
Tôi vội xuống núi với hai bảng đá trên tay. Lúc ấy lửa vẫn cháy rực trên núi.
16 Mǝn kɵrdüm, mana silǝr Pǝrwǝrdigar Hudayinglar aldida gunaⱨ ⱪilipsilǝr; silǝr ɵzünglar üqün ⱪuyma bir mozayni yasapsilǝr; silǝr tezla Pǝrwǝrdigar silǝrgǝ tapiliƣan yoldin qǝtnǝp ketipsilǝr.
Cảnh anh em quây quần quanh tượng bò con vừa đúc đập vào mắt tôi. Anh em thật đã phạm tội nặng nề cùng Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, đã vội từ bỏ chính đạo Chúa Hằng Hữu vừa truyền cho!
17 Mǝn ikki tahtayni ikki ⱪolumƣa elip, qɵrüp taxlap, ularni kɵz aldinglarda qeⱪiwǝttim.
Thấy thế, tôi ném hai bảng đá vỡ tan trước mắt mọi người.
18 Silǝr Pǝrwǝrdigarni ƣǝzǝplǝndürüp barliⱪ ɵtküzgǝn gunaⱨinglar, yǝni Pǝrwǝrdigarning nǝziridǝ rǝzil bolƣanni ⱪilƣininglar üqün, yǝnǝ awwalⱪidǝk Pǝrwǝrdigar aldida yiⱪilip, ⱪiriⱪ keqǝ-kündüz düm yattim (mǝn ⱨeq nǝrsǝ yemidim, su iqmidim)
Rồi, trong bốn mươi ngày đêm, tôi sấp mình xuống trước Chúa Hằng Hữu, không ăn không uống, vì tội anh em. Anh em đã làm điều Chúa Hằng Hữu ghê tởm để chọc giận Ngài.
19 qünki mǝn Pǝrwǝrdigarning silǝrni yoⱪitidiƣan ⱪattiⱪ ƣǝzipi ⱨǝm ⱪǝⱨridin ⱪorⱪtum. Pǝrwǝrdigar xu qaƣdimu mening tilikimni anglidi.
Tôi chỉ sợ cơn thịnh nộ của Chúa Hằng Hữu nổi dậy tiêu diệt anh em. Nhưng Ngài lại nghe lời cầu xin của tôi lần đó nữa.
20 Pǝrwǝrdigar Ⱨarundin ƣǝzǝplinip, unimu yoⱪatmaⱪqi boldi; mǝn Ⱨarun üqünmu dua ⱪildim.
Riêng phần A-rôn, vì ông đã làm cho Chúa Hằng Hữu giận quá nên sắp bị giết. Tôi cầu thay cho và ông cũng được tha.
21 Mǝn silǝrning gunaⱨinglarni, yǝni yasiƣan mozayni elip uni otta kɵydürdüm wǝ uni yanjip kukum-talⱪan ⱪilip eziwǝttim; uning topisini elip taƣdin qüxidiƣan eriⱪ süyigǝ qeqiwǝttim
Tôi lấy vật tội lỗi, tức là tượng bò con anh em đã làm, đem đốt và nghiền ra thật nhỏ như bụi, bỏ vào khe nước từ trên núi chảy xuống.
22 (silǝr yǝnǝ Tabǝraⱨ, Massaⱨ, Kibrot-Ⱨattawaⱨdimu Pǝrwǝrdigarni ƣǝzǝplǝndürdünglar.
Anh em lại còn khiêu khích Chúa Hằng Hữu tại Tha-bê-ra, tại Ma-sa, và tại Kíp-rốt Ha-tha-va.
23 Pǝrwǝrdigar silǝrni Ⱪadǝx-Barneadin [Ⱪanaanƣa] mangdurmaⱪqi bolup silǝrgǝ: «Qiⱪip, Mǝn silǝrgǝ tǝⱪdim ⱪilƣan zeminni igilǝnglar» — degǝndimu, silǝr Uning sɵzigǝ ⱪarxi qiⱪip asiyliⱪ ⱪildinglar, nǝ Uningƣa ixǝnmidinglar, nǝ awaziƣa ⱨeq ⱪulaⱪ salmidinglar.
Tại Ca-đê Ba-nê-a, khi Chúa Hằng Hữu phán bảo anh em vào chiếm đất hứa, anh em cãi lệnh Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em vì không tin Ngài. Anh em không chịu vâng lời Ngài.
24 Mǝn silǝrni tonuƣan kündin tartip silǝr Pǝrwǝrdigar Hudayinglarƣa asiyliⱪ ⱪilip kǝldinglar).
Từ ngày tôi biết anh em đến nay, anh em vẫn thường xuyên nổi loạn chống Chúa Hằng Hữu.
25 Xuning bilǝn mǝn axu qaƣda Pǝrwǝrdigar aldida ɵzümni yǝrgǝ etip yǝnǝ ⱪiriⱪ keqǝ-kündüz düm yattim; dǝrwǝⱪǝ düm yattim; qünki Pǝrwǝrdigar silǝrgǝ ⱪarap «ularni yoⱪitimǝn» degǝnidi.
Vậy, tôi sấp mình xuống trước Chúa Hằng Hữu suốt bốn mươi ngày đêm, vì lúc ấy Ngài sắp tiêu diệt anh em.
26 Xunga mǝn Pǝrwǝrdigarƣa dua ⱪilip: «I Rǝb Pǝrwǝrdigar, Sǝn Ɵz uluƣluⱪung arⱪiliⱪ Ɵzüng üqün ⱨɵrlük bǝdili tɵlǝp setiwalƣan, Misirdin küqlük ⱪolung bilǝn qiⱪarƣan Ɵz hǝlⱪing bolƣan mirasingni yoⱪatmiƣaysǝn;
Tôi thưa: ‘Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đừng tiêu diệt dân này, là dân thuộc về Chúa. Chúa đã chuộc họ, đem họ ra khỏi Ai Cập bằng một quyền lực cao cả, một sức mạnh phi thường.
27 Ɵz ⱪulliring Ibraⱨim, Isⱨaⱪ wǝ Yaⱪupni esingdǝ tutⱪaysǝn; bu hǝlⱪning baxbaxtaⱪliⱪiƣa, ularning rǝzilliki yaki gunaⱨiƣa ⱪarimiƣaysǝn;
Xin Chúa nhớ các đầy tớ Ngài là Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, và quên đi sự bướng bỉnh, tội lỗi xấu xa của dân này.
28 bolmisa, sǝn bizni elip qiⱪⱪan xu zemindikilǝr: «Pǝrwǝrdigar bu hǝlⱪni ularƣa wǝdǝ ⱪilƣan zeminni igilǝxkǝ elip kirǝlmǝydiƣanliⱪi üqün wǝ ularƣa nǝprǝtlǝngini tüpǝylidin ularni qɵl-bayawanda yoⱪitixⱪa [Misirdin] qiⱪardi» — dǝydu.
Nếu không, người Ai Cập sẽ nói: “Vì Chúa Hằng Hữu không thể nào đem họ vào đất hứa, và cũng vì Ngài ghét họ, nên mới đem họ vào hoang mạc để giết đi.”
29 Ⱪandaⱪla bolmisun, ular zor küqüng wǝ uzartilƣan biliking bilǝn [Misirdin] qiⱪarƣan hǝlⱪing wǝ sening mirasingdur» — dedim.
Họ là dân Ngài, thuộc về Chúa, là dân được Chúa giải thoát khỏi Ai Cập bằng quyền lực cao cả, bằng sức mạnh phi thường của Chúa.’”

< Ⱪanun xǝrⱨi 9 >