< Rosullarning paaliyǝtliri 13 >
1 Antakyadiki jamaǝt iqidǝ bǝzi pǝyƣǝmbǝrlǝr wǝ tǝlim bǝrgüqilǝr bar idi. Ular Barnabas, «Ⱪara» dǝpmu atilidiƣan Ximeon, Kurinilik Lukius, Ⱨerod han bilǝn billǝ qong bolƣan Manaǝn wǝ Saullar idi.
Hội Thánh An-ti-ốt có năm nhà tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-mê-ôn (còn được gọi là “người đen”), Lu-si-út quê ở Ly-bi, Ma-na-ên, em kết nghĩa của vua chư hầu Hê-rốt, và Sau-lơ.
2 Ular Rǝbning ibaditidǝ bolup roza tutuwatⱪan bir mǝzgildǝ, Muⱪǝddǝs Roⱨ ularƣa: — Barnabas bilǝn Saulni Mǝn ularni ⱪilixⱪa qaⱪirƣan hizmǝt üqün Manga ayrip ⱪoyunglar, — dedi.
Hội Thánh đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Chúa Thánh Linh bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta, để làm công việc Ta chỉ định.”
3 Xuning bilǝn, ular yǝnǝ roza tutup dua ⱪilƣandin keyin, ikkiylǝnning üstigǝ ⱪollirini tǝgküzüp uzitip ⱪoydi.
Sau khi kiêng ăn cầu nguyện, Hội Thánh đặt tay và tiễn hai ông lên đường.
4 Ular Muⱪǝddǝs Roⱨ tǝripidin ǝwǝtilgǝn bolup, Sǝlyukiyǝ xǝⱨirigǝ berip, u yǝrdin kemigǝ qiⱪip Siprus ariliƣa ⱪarap yolƣa qiⱪti.
Được Chúa Thánh Linh ủy nhiệm, Ba-na-ba và Sau-lơ liền xuống Sê-lơ-xi đi thuyền đến đảo Síp.
5 Salamis xǝⱨirigǝ yetip kelip, ular Yǝⱨudiylarning sinagoglirida Hudaning sɵz-kalamini yǝtküzüxkǝ baxlidi. Yuⱨanna ularning yardǝmqisi idi.
Cập bến Sa-la-min, họ lần lượt công bố Đạo của Đức Chúa Trời trong các hội đường Do Thái khắp đảo Síp. Giăng Mác cũng đi theo phụ tá.
6 Ular pütün aralni arilap qiⱪip, Pafos xǝⱨirigǝ kǝldi. Ular u yǝrdǝ Baryǝxua isimlik bir kixi bilǝn uqrixip ⱪaldi. U seⱨirgǝr bolup, sahta pǝyƣǝmbǝr bolƣan bir Yǝⱨudiy idi.
Sau khi đi khắp đảo, cuối cùng họ đến Pa-phô, ở đó có một phù thủy người Do Thái, là tiên tri giả tên Ba-giê-xu, biệt danh Ê-li-ma.
7 U kixi bu [aralning] rimliⱪ waliyisi Sergiyus Pawlusning ⱨǝmraⱨi idi. Waliy uⱪumuxluⱪ bir kixi bolup, Barnabas bilǝn Saulni qaⱪirtip, Hudaning sɵz-kalamini anglimaⱪqi boldi.
Ba-giê-xu quen thân thống đốc Sê-giu Phao-lút. Thống đốc là người khôn ngoan, sai mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến giảng Đạo Chúa.
8 Lekin ⱨeliⱪi seⱨirgǝr (uning grekqǝ ismi Əlimas bolup, «seⱨirgǝr» degǝn mǝnidǝ) ularƣa ⱪarxi qiⱪip, waliyning rayini etiⱪadtin ⱪayturuxni urunmaⱪta idi.
Nhưng phù thủy Ê-li-ma chống đối hai ông, tìm cách khuyên thống đốc đừng tin Chúa.
9 Biraⱪ Muⱪǝddǝs Roⱨⱪa toldurulƣan Saul (yǝnǝ «Pawlus» dǝpmu atilidu) ⱨeliⱪi seⱨirgǝrgǝ tikilip ⱪarap
Bấy giờ Sau-lơ cũng gọi là Phao-lô, được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, quắc mắt nhìn tên phù thủy:
10 uningƣa: — Əy, ⱪǝlbing ⱨǝrhil ⱨiyligǝrlik wǝ aldamqiliⱪ bilǝn tolƣan Iblisning oƣli, ⱨǝmmǝ ⱨǝⱪⱪaniyliⱪning düxmini! Pǝrwǝrdigarning tüz yollirini burmilaxni zadi tohtatmamsǝn?!
“Anh là người đầy gian trá xảo quyệt, là ác quỷ, kẻ thù công lý! Anh không ngưng phá hoại công việc Chúa sao?
11 Əmdi Rǝbning ⱪoli üstünggǝ qüxti! Kɵzliring kor bolup, bir mǝzgil künning yoruⱪini kɵrǝlmǝysǝn! — dedi. Xuan, bir hil tuman wǝ ⱪarangƣuluⱪ uni basti. U yolni silaxturup, kixilǝrdin meni ⱪolumdin yetilǝnglar, dǝp iltija ⱪilatti.
Này, Chúa ra tay phạt anh bị mù, không nhìn thấy mặt trời một thời gian.” Lập tức bóng tối dày đặc bao phủ Ê-li-ma. Anh ta phải quờ quạng tìm người dẫn dắt.
12 Yüz bǝrgǝn ixni kɵrgǝn waliy Rǝbning tǝlimigǝ ⱪattiⱪ ⱨǝyran bolup, Uningƣa etiⱪad ⱪildi.
Thấy việc phi thường, thống đốc liền tin Chúa và ngạc nhiên về Đạo Chúa.
13 Pawlus bilǝn uning ⱨǝmraⱨliri kemigǝ qiⱪip, Pafostin Pamfiliyǝ ɵlkisidiki Pǝrgǝ xǝⱨirigǝ bardi. U yǝrdǝ Yuⱨanna ulardin ayrilip Yerusalemƣa ⱪaytti.
Phao-lô và các bạn từ Pa-phô xuống tàu đi Bẹt-ga, xứ Bam-phi-ly, còn Giăng Mác rời họ trở về Giê-ru-sa-lem.
14 Pawluslar bolsa Pǝrgǝ xǝⱨiridin qiⱪip, dawamliⱪ mengip Pisidiyǝ rayonidiki Antakya xǝⱨirigǝ berip, xabat küni sinagogⱪa kirdi.
Từ Bẹt-ga, họ đến An-ti-ốt xứ Bi-si-đi. Vào ngày Sa-bát, họ vào thăm hội đường Do Thái.
15 Tǝwrat ⱪisimliridin wǝ pǝyƣǝmbǝrlǝrning yazmiliridin oⱪulƣandin keyin, sinagogning qongliri ularni qaⱪirtip: — Ⱪerindaxlar, ǝgǝr halayiⱪⱪa birǝr nǝsiⱨǝt sɵzünglar bolsa, eytinglar, — dedi.
Sau khi đọc sách luật Môi-se và các sách tiên tri, các quản lý hội đường sai người mời Phao-lô và Ba-na-ba: “Thưa các anh em, nếu các anh có lời khích lệ dân chúng, xin cứ nói!”
16 Pawlus ornidin turup, ⱪol ixiriti ⱪilip, halayiⱪⱪa mundaⱪ dedi: — Əy Israillar wǝ Hudadin ⱪorⱪⱪanlar, ⱪulaⱪ selinglar!
Phao-lô đứng dậy đưa tay chào và nói: “Thưa toàn dân Ít-ra-ên và anh chị em dân ngoại, là những người có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, xin lắng nghe tôi.
17 Bu Israil hǝlⱪining Hudasi ata-bowilirimizni tallidi; ular Misirda musapir bolup yaxiƣan waⱪitlarda ularni uluƣ ⱪildi, Ɵzining egiz kɵtürgǝn biliki bilǝn ularni Misirdin ⱪutⱪuzup qiⱪti.
Đức Chúa Trời của dân tộc Ít-ra-ên đã chọn tổ tiên chúng ta, cho họ thịnh vượng tại xứ Ai Cập, dùng quyền năng phi thường dìu dắt họ ra khỏi xứ đó.
18 U qɵldǝ ularƣa tǝhminǝn ⱪiriⱪ yil ƣǝmhorluⱪ ⱪildi
Suốt bốn mươi năm, Ngài nhẫn nại chịu đựng họ giữa hoang mạc.
19 andin Ⱪanaan zeminidiki yǝttǝ ǝlni yoⱪitip, ularning zeminlirini ularƣa miras ⱪilip bǝrdi.
Sau khi tiêu diệt bảy dân tộc xứ Ca-na-an, Ngài chia đất cho họ làm sản nghiệp.
20 Bu ixlarƣa aldi-kǝyni bolup tǝhminǝn tɵt yüz ǝllik yil kǝtti. Keyin, taki Samuil pǝyƣǝmbǝr otturiƣa qiⱪⱪiqǝ, u ularƣa batur ⱨakimlarni tiklǝp bǝrdi.
Tất cả điều đó diễn ra trong 450 năm. Sau đó, Đức Chúa Trời lập các phán quan lãnh đạo họ đến đời tiên tri Sa-mu-ên.
21 Andin ular bizgǝ bir padixaⱨni bǝrsikǝn, dǝp [Samuil pǝyƣǝmbǝrdin] tilidi. Xuning bilǝn Huda ularƣa Binyamin ⱪǝbilisidin Kix isimlik adǝmning oƣli Saulni tiklǝp bǝrdi. U ⱪiriⱪ yil ⱨɵküm sürdi.
Theo lời thỉnh cầu của dân chúng, Đức Chúa Trời lập Sau-lơ, con trai Kích, thuộc đại tộc Bên-gia-min làm vua trong bốn mươi năm.
22 Biraⱪ [Huda] Saulni sǝltǝnitidin qüxürüp, ularƣa Dawutni padixaⱨ ⱪilip turƣuzup bǝrdi. Huda uning ⱨǝⱪⱪidǝ guwaⱨliⱪ berip: «Kɵnglümdikidǝk bir adǝmni, yǝni Yǝssǝning oƣli Dawutni taptim. U Mening toluⱪ iradǝmgǝ ǝmǝl ⱪilidu», — dedi.
Nhưng Đức Chúa Trời truất phế Sau-lơ và đặt Đa-vít lên ngôi, người được Đức Chúa Trời chứng nhận: ‘Ta đã tìm thấy Đa-vít, con trai Gie-sê, là người làm Ta hài lòng; Đa-vít sẽ thực hiện chương trình Ta.’
23 Ɵzi wǝdǝ ⱪilƣandǝk Huda bu adǝmning nǝslidin Israil hǝlⱪigǝ bir Ⱪutⱪuzƣuqi tiklǝp bǝrdi — u bolsa Əysaning ɵzidur!
Đúng theo lời hứa, Đức Chúa Trời lập Chúa Giê-xu, hậu tự Vua Đa-vít làm Đấng Cứu Rỗi của Ít-ra-ên!
24 U hǝlⱪning otturisiƣa qiⱪixtin alwwal, Yǝⱨya [pǝyƣǝmbǝr] qiⱪip, barliⱪ Israil hǝlⱪini towa ⱪilixni [bildüridiƣan] qɵmüldürüxni ⱪobul ⱪilinglar, dǝp jakarlidi.
Trước khi Chúa đến, Giăng Báp-tít đã dạy dân Ít-ra-ên phải ăn năn tội lỗi và chịu báp-tem.
25 Yǝⱨya [pǝyƣǝmbǝr] wǝzipini tamamliƣanda, halayiⱪⱪa mundaⱪ degǝnidi: «Silǝr meni kim dǝp bilisilǝr? Mǝn silǝr kütkǝn zat ǝmǝsmǝn. Biraⱪ mana, mǝndin keyin birsi kelidu, mǝn ⱨǝtta uning ayaƣ kǝxlirini yexixkimu layiⱪ ǝmǝsmǝn!»
Khi hoàn thành nhiệm vụ, Giăng tuyên bố: ‘Anh em tưởng tôi là Đấng Mết-si-a sao? Không, tôi không phải là Đấng ấy! Nhưng Chúa sẽ sớm đến—tôi không đáng hầu hạ và mở quai dép cho Ngài.’
26 Əy ⱪerindaxlar, Ibraⱨimning jǝmǝtining nǝsilliri wǝ aranglardiki Hudadin ⱪorⱪⱪanlar, bu nijatliⱪning sɵz-kalami silǝrgǝ ǝwǝtildi!
Thưa anh chị em—con cháu Áp-ra-ham và anh chị em dân ngoại, là những người có lòng kính sợ Đức Chúa Trời—sứ điệp cứu rỗi đã đến với chúng ta!
27 Yerusalemda turuwatⱪanlar wǝ ularning ⱨakimliri [Əysani] tonumay, uning üstidin gunaⱨkar dǝp ⱨɵküm qiⱪarƣini bilǝn, ⱨǝr xabat küni oⱪulidiƣan pǝyƣǝmbǝrlǝrning aldin eytⱪan sɵzlirini ǝmǝlgǝ axurdi.
Vì dân thành Giê-ru-sa-lem và các cấp lãnh đạo không nhận biết Chúa Giê-xu, là Đấng đã được các vị tiên tri nói đến. Thay vào đó, họ kết án Ngài, và việc này làm ứng nghiệm các lời tiên tri thường được đọc trong ngày Sa-bát.
28 Gǝrqǝ ular uningdin ɵlüm jazasiƣa ⱨɵküm ⱪilixⱪa tegixlik birǝr gunaⱨ tapalmiƣan bolsimu, waliy Pilatustin yǝnila uni ɵlümgǝ mǝⱨkum ⱪilixni ɵtündi.
Dù không tìm được lý do khép Ngài vào tội tử hình, nhưng họ vẫn cứ xin Phi-lát giết Ngài.
29 Ular [bu] [ixlarni ⱪilip] muⱪǝddǝs yazmilarda uning ⱨǝⱪⱪidǝ aldin pütülgǝnlǝrning ⱨǝmmisini [ɵzliri bilmigǝn ⱨalda] ǝmǝlgǝ axurƣandin keyin, uning jǝsitini kresttin qüxürüp, bir ⱪǝbrigǝ ⱪoydi.
Sau khi làm ứng nghiệm mọi lời đã chép về Chúa, họ gỡ thi thể Ngài khỏi cây thập tự và đặt trong ngôi mộ.
30 Lekin Huda uni ɵlümdin tirildürdi!
Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại!
31 Tirilgǝndin keyin, u burun ɵzi bilǝn Galiliyǝdin Yerusalemƣiqǝ ǝgixip kǝlgǝnlǝrgǝ kɵp künlǝr iqidǝ [nǝqqǝ ⱪetim] kɵrünüp turdi. Bu kixilǝr ⱨazir [Israil] hǝlⱪigǝ uning guwaⱨqiliri boluwatidu.
Trong nhiều ngày liên tiếp Chúa hiện ra gặp những người từng theo Ngài từ xứ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem. Hiện nay họ còn làm chứng về Ngài cho người Ít-ra-ên.
32 Bizmu ata-bowilirimizƣa ⱪilinƣan wǝdining hux hǝwirini silǝrgǝ ⱨazir jakarlaymiz — Huda Əysani [arimizda] tiklǝp, bu wǝdini ularning ǝwladliri bolƣan bizlǝrgǝ ǝmǝlgǝ axurdi. Bu ⱨǝⱪtǝ Zǝburning ikkinqi küyidǝ aldin’ala mundaⱪ pütülgǝn: «Sǝn Mening Oƣlum, Ɵzüm seni bügünki künidǝ tuƣdurdum».
Chúng tôi xin công bố Phúc Âm cho quý vị. Điều Đức Chúa Trời hứa với tổ tiên chúng ta ngày trước,
Ngài đã thực hiện trong thời đại chúng ta, Ngài đã khiến Chúa Giê-xu sống lại. Như Thi Thiên thứ hai đã viết về Chúa Giê-xu: ‘Ngươi là Con Ta. Ngày nay Ta là Cha Ngươi.’
34 Əmdiliktǝ Hudaning Əysaƣa qirixni ⱪayta kɵrgüzmǝy ɵlümdin tirildüridiƣanliⱪi ⱨǝⱪⱪidǝ u [muⱪǝddǝs yazmilarda] mundaⱪ aldin eytⱪan: «Dawutⱪa wǝdǝ ⱪilƣan meⱨir-xǝpⱪǝtlǝrni silǝrgǝ ata ⱪilimǝn!»
Vì Đức Chúa Trời hứa cho Ngài sống lại, không bao giờ để Ngài bị mục nát trong mộ phần. Đức Chúa Trời phán: ‘Ta sẽ cho Con đặc ân mà Ta đã hứa với Đa-vít.’
35 Xunga yǝnǝ bu ⱨǝⱪtǝ yǝnǝ bir ayǝttǝ: — «[I Huda], Sening muⱪǝddǝs Bolƣuqungƣa tenining qirixini kɵrgüzmǝysǝn».
Và ‘Chúa không để Đấng Thánh Ngài bị mục nát.’
36 Qünki Dawut dǝrwǝⱪǝ Hudaning iradisi boyiqǝ ɵz dǝwri üqün hizmǝt ⱪilip, ɵz ata-bowiliriƣa ⱪoxulup ɵlümdǝ uhlap uning teni qirip kǝtkǝnidi.
Lời hứa ấy không phải nói về Đa-vít, vì sau khi phục vụ Đức Chúa Trời suốt đời, Đa-vít đã chết, được an táng bên cạnh tổ phụ, và thi hài cũng rữa nát như mọi người.
37 Lekin Huda ɵlümdin tirildürgüqi bolsa qirixni ⱨeq kɵrmidi.
Không, lời ấy nói về một Đấng khác—Đấng được Đức Chúa Trời khiến sống lại và thân thể Ngài không hề mục nát.
38 Əmdi xunga silǝr xuni bilixinglar kerǝkki, i ⱪerindaxlar, ⱨazir gunaⱨlardin kǝqürüm ⱪilinix yoli dǝl xu kixi arⱪiliⱪ silǝrgǝ jakarliniwatidu.
Vậy thưa anh chị em, chúng tôi ở đây để công bố rằng nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta được ơn tha tội của Đức Chúa Trời:
39 Musa pǝyƣǝmbǝrgǝ qüxürülgǝn Tǝwrat ⱪanuni bilǝn silǝr halas bolalmaywatⱪan ixlardin uningƣa etiⱪad ⱪilƣuqilar u arⱪiliⱪ halas ⱪilinip ⱨǝⱪⱪaniy ⱪilinidu!
Ai tin Chúa Cứu Thế đều được Đức Chúa Trời thừa nhận là người công chính. Đó là điều mà luật pháp Môi-se không bao giờ làm được.
40 Xunga, pǝyƣǝmbǝrlǝr aldin eytⱪan xu balayi’apǝt bexinglarƣa qüxmǝsliki üqün eⱨtiyat ⱪilinglar! —
Xin quý vị thận trọng vì có lời tiên tri cảnh cáo:
41 «Ⱪaranglar, i mazaⱪ ⱪilƣuqilar, ⱨǝyranuⱨǝs bolup ⱨalak bolunglar! Qünki silǝrning künliringlarda bir ix ⱪilimǝnki, Uni birsi silǝrgǝ elan ⱪilsimu silǝr xu ixⱪa ⱨǝrgiz ixǝnmǝysilǝr!»
‘Này, những người nhạo báng, hãy kinh ngạc, rồi bị diệt vong! Vì trong đời các ngươi Ta sẽ làm một việc, một việc các ngươi không thể tin dù có người thuật lại các ngươi cũng chẳng tin.’”
42 Pawlus bilǝn Barnabas sinagogdin qiⱪiwatⱪanda, jamaǝt ularƣa kelǝrki xabat küni bu ixlar ⱨǝⱪⱪidǝ yǝnǝ sɵzlǝxni yelindi.
Khi Phao-lô và Ba-na-ba bước ra khỏi hội đường, dân chúng nài nỉ hai ông trở lại giảng thêm Đạo Chúa vào tuần sau.
43 Sinagogtiki jamaǝt tarⱪalƣanda, nurƣun Yǝⱨudiylar wǝ Hudadin ⱪorⱪⱪan Tǝwratⱪa etiⱪad ⱪilƣan Yǝⱨudiy ǝmǝslǝrmu Pawlus bilǝn Barnabasⱪa ǝgǝxti. Ikkisi ularƣa sɵz ⱪilip, ularni Hudaning meⱨir-xǝpⱪitidǝ qing turuxⱪa dǝwǝt ⱪildi.
Giải tán xong, nhiều người Do Thái và người bản xứ theo đạo Do Thái đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông nói chuyện với họ và khích lệ họ tiếp tục sống trong ơn Chúa.
44 Keyinki xabat küni, pütün xǝⱨǝr hǝlⱪi degüdǝk Hudaning sɵz-kalamini angliƣili kelixti.
Tuần sau đó, hầu hết dân trong thành tập họp để nghe Đạo Chúa.
45 Biraⱪ bundaⱪ top-top adǝmlǝrni kɵrgǝn Yǝⱨudiylar ⱨǝsǝtkǝ qɵmüp, Pawlusning sɵzlirigǝ ⱪarxi tǝtür gǝp ⱪilip, uningƣa tɵⱨmǝt ⱪildi.
Thấy quần chúng đông đảo, các nhà lãnh đạo Do Thái sinh lòng ganh tị, phản đối những lời Phao-lô giảng dạy và nhục mạ ông.
46 Əmdi Pawlus bilǝn Barnabas tehimu yürǝklik ⱨalda mundaⱪ dedi: — Hudaning sɵz-kalamini aldi bilǝn silǝr [Yǝⱨudiy hǝlⱪigǝ] yǝtküzüx kerǝk idi. Lekin silǝr uni qǝtkǝ ⱪeⱪip ɵzünglarni mǝnggülük ⱨayatⱪa layiⱪ kɵrmigǝndin keyin, mana biz [silǝrdin] burulup ǝllǝrgǝ yüzlinimiz! (aiōnios )
Phao-lô và Ba-na-ba dõng dạc tuyên bố: “Đạo Chúa được truyền giảng cho anh chị em trước, nhưng anh chị em khước từ và xét mình không đáng được sống vĩnh cửu, nên chúng tôi quay sang dân ngoại. (aiōnios )
47 Qünki Pǝrwǝrdigar [muⱪǝddǝs yazmilarda] bizgǝ mundaⱪ buyruƣan: — «Mǝn Seni [yat] ǝllǝrgǝ nur boluxⱪa, Yǝr yüzining qǝt-yaⱪiliriƣiqǝ nijatliⱪ boluxung üqün Seni atidim».
Vì Chúa đã truyền dạy chúng tôi: ‘Ta dùng con làm ánh sáng cho các dân ngoại, để truyền Đạo cứu rỗi khắp thế giới.’”
48 Əllǝrdikilǝr bu sɵzni anglap, huxal boluxup Rǝbning sɵz-kalamini uluƣlaxti; mǝnggülük ⱨayatⱪa erixixkǝ bekitilgǝnlǝrning ⱨǝmmisi etiⱪad ⱪildi. (aiōnios )
Khi dân ngoại nghe xong đều vui mừng ca tụng Phúc Âm. Những người được định cho sự sống vĩnh cửu đều tin Chúa. (aiōnios )
49 Xundaⱪ ⱪilip, Rǝbning sɵz-kalami pütkül zeminƣa tarⱪaldi.
Đạo Chúa được truyền bá khắp miền đó.
50 Biraⱪ Yǝⱨudiylar Hudadin ⱪorⱪⱪan yuⱪiri tǝbiⱪilik ayallarni ⱨǝm xǝⱨǝr mɵtiwǝrlirini ⱪutritip, Pawlus bilǝn Barnabasⱪa ziyankǝxlik ⱪilƣuzup, ular ikkisini ɵz yurtliridin ⱪoƣlap qiⱪardi.
Nhưng các nhà lãnh đạo Do Thái xúi giục các phụ nữ quý phái sùng đạo Do Thái và các nhà chức trách thành phố tụ tập đám đông chống nghịch Phao-lô và Ba-na-ba, đuổi hai ông khỏi lãnh thổ.
51 Əmma Pawlus bilǝn Barnabas ularƣa ⱪarap ayaƣliridiki topini ⱪeⱪixturuwetip, Konya xǝⱨirigǝ ⱪarap mangdi.
Hai ông giũ áo ra đi, đến thành Y-cô-ni.
52 [Antakyadiki] muhlislar bolsa huxalliⱪⱪa ⱨǝmdǝ Muⱪǝddǝs Roⱨⱪa tolduruldi.
Còn các tín hữu được đầy dẫy Chúa Thánh Linh và tràn ngập vui mừng.