< Padixaⱨlar 1 18 >

1 Uzun waⱪit ɵtüp, Pǝrwǝrdigarning sɵzi [ⱪurƣaⱪqiliⱪning] üqinqi yilida Iliyasⱪa kelip: — Sǝn berip ɵzüngni Aⱨabning aldida ayan ⱪilƣin, wǝ Mǝn yǝr yüzigǝ yamƣur yaƣdurimǝn, deyildi.
Cách lâu ngày, trong năm thứ ba có lời của Đức Giê-hô-va phán dạy Ê-li rằng: Hãy đi, ra mắt A-háp: ta sẽ khiến mưa sa xuống đất.
2 Xuning bilǝn Iliyas ɵzini Aⱨabning aldida ayan ⱪilƣili qiⱪip kǝtti. Aqarqiliⱪ bolsa Samariyǝdǝ ⱪattiⱪ idi.
Vậy, Ê-li đi ra mắt A-háp. Vả, tại Sa-ma-ri có cơn đói kém quá đỗi.
3 Aⱨab ordisidiki ƣojidar Obadiyani qaⱪirdi (Obadiya tolimu tǝⱪwadar kixi bolup Pǝrwǝrdigardin intayin ⱪorⱪatti.
A-háp sai gọi Aùp-đia, là quan gia tể mình. (Aùp-đia rất kính sợ Đức Giê-hô-va.
4 Yizǝbǝl Pǝrwǝrdigarning pǝyƣǝmbǝrlirini ɵltürüp yoⱪitiwatⱪanda Obadiya yüz pǝyƣǝmbǝrni elip ǝlliktin-ǝlliktin ayrim-ayrim ikki ƣarƣa yoxurup, ularni nan wǝ su bilǝn baⱪⱪanidi).
Xảy ra khi Giê-sa-bên diệt hết các đấng tiên tri của Đức Giê-hô-va, thì Aùp-đia có đem một trăm đấng tiên tri đi giấu trong hai hang đá, mỗi hang năm mươi người, dùng bánh và nước mà nuôi họ.)
5 Aⱨab Obadiyaƣa: — Zeminni kezip ⱨǝmmǝ bulaⱪ wǝ ⱨǝmmǝ jilƣilarƣa berip baⱪⱪin; u yǝrlǝrdǝ at-ⱪeqirlarni tirik saⱪliƣudǝk ot-qɵp tepilarmikin? Xundaⱪ bolsa bizning ulaƣlirimizning bir ⱪismini soymay turalarmiz, dedi.
A-háp nói với Aùp-đia rằng: Hãy đi khắp xứ, xem hết thảy các suối và khe, có lẽ chúng ta sẽ tìm được cỏ, và cứu cho ngựa và la còn sống, không phải diệt hết các súc vật ta chăng?
6 Ular ⱨǝrbiri jaylarƣa bɵlünüp mangdi; Aⱨab ɵz aldiƣa mangdi, Obadiyamu ɵz aldiƣa mangdi.
Vậy, hai người chia xứ đặng đi tuần. A-háp đi một mình con đường này, và Aùp-đia đi một mình con đường kia.
7 Obadiya ɵz yolida ketip barƣanda, mana, uningƣa Iliyas uqridi. U uni tonup yǝrgǝ yiⱪilip düm yetip: Bu rast sǝn, ƣojam Iliyasmu? — dǝp soridi.
Aùp-đia đang đi đường, thì gặp Ê-li ra đón mình. Aùp-đia nhìn biết người, sấp mình xuống đất, mà thưa rằng: Hỡi Ê-li chúa tôi! có phải ông chăng?
8 U uningƣa: — Bu mǝn. Berip ɵz ƣojangƣa: — Iliyas ⱪaytip kǝldi! dǝp eytⱪin, dedi.
Người đáp: ã phải ta. Ngươi hãy đi nói với chủ ngươi rằng: Ê-li ở đây.
9 U Iliyasⱪa mundaⱪ dedi: — «Sǝn ⱪandaⱪsigǝ kǝminǝngni ɵltürgili Aⱨabning ⱪoliƣa tapxurmaⱪqi bolisǝn, mǝn zadi nemǝ gunaⱨ ⱪildim?
Aùp-đia tiếp rằng: Tôi có phạm tội gì, mà ông muốn phó kẻ tôi tớ ông vào tay A-háp, hầu cho người giết tôi đi?
10 Ɵz Hudaying Pǝrwǝrdigarning ⱨayati bilǝn ⱪǝsǝm ⱪilimǝnki, ƣojam adǝm ǝwǝtip seni izdimigǝn ⱨeq ǝl wǝ mǝmlikǝt ⱪalmidi. Xu ǝl, mǝmlikǝtlǝr: «U bu yǝrdǝ yoⱪ» desǝ, padixaⱨ ularƣa seni tapalmiƣanƣa ⱪǝsǝm iqküzdi.
Tôi chỉ Giê-hô-va Đức Chúa Trời hằng sống của ông mà thề, chẳng dân nào nước nào mà chủ tôi không sai đến tìm ông và khi người ta đáp rằng: Ê-li không có đây, thì người bắt nước bắt dân ấy thề rằng không ai gặp ông.
11 Lekin sǝn manga ⱨazir: — «Berip ƣojangƣa: — Iliyas ⱪaytip kǝldi! degin» — dǝysǝn!
Mà bây giờ, ông lại nói với tôi tớ rằng: Hãy đi nói với chủ ngươi: Ê-li ở đây.
12 Mǝn ⱪexingdin kǝtkǝndin keyin, Pǝrwǝrdigarning Roⱨi seni mǝn bilmigǝn yǝrgǝ elip baridu; xundaⱪta mǝn Aⱨabⱪa hǝwǝr yǝtküzüp, lekin u seni tapalmisa, meni ɵltüridu. Əmǝliyǝttǝ, kǝminǝng yaxliⱪimdin tartip Pǝrwǝrdigardin ⱪorⱪup kǝlgǝnmǝn.
Rồi khi tôi lìa khỏi ông, sẽ có thần của Đức Giê-hô-va đem ông đi nơi nào tôi chẳng biết; vậy, khi tôi đi thuật lại cùng A-háp, mà người không thấy ông, ắt sẽ giết tôi đi. Vả, kẻ tôi tớ ông kính sợ Đức Giê-hô-va từ khi thơ ấu.
13 Yizǝbǝl Pǝrwǝrdigarning pǝyƣǝmbǝrlirini ɵltürgǝndǝ mening ⱪandaⱪ ⱪilƣinim, yǝni mǝn Pǝrwǝrdigarning pǝyƣǝmbǝrliridin yüzni ǝlliktin-ǝlliktin ayrim-ayrim ikki ƣarƣa yoxurup, ularni nan wǝ su bilǝn tǝminlǝp baⱪⱪanliⱪim sǝn ƣojamƣa mǝlum ⱪilinƣan ǝmǝsmu?
Khi Giê-sa-bên giết các tiên tri của Đức Giê-hô-va, thì tôi có giấu một trăm tiên tri của Đức Giê-hô-va trong hai hang đá, mỗi hang năm mươi người, dùng bánh và nước mà nuôi họ; người ta há không có thuật điều đó cho chúa tôi hay sao?
14 Əmdi sǝn ⱨazir manga: — «Berip ƣojangƣa: — Mana Iliyas kǝldi degin», — deding. Xundaⱪ ⱪilsam u meni ɵltüridu!».
Và bây giờ, ông biểu tôi: Hãy đi nói với chủ ngươi rằng: Ê-li ở đây. Người ắt sẽ giết tôi đi.
15 Lekin Iliyas: — Mǝn hizmitidǝ turuwatⱪan samawi ⱪoxunlarning Sǝrdari bolƣan Pǝrwǝrdigarning ⱨayati bilǝn ⱪǝsǝm ⱪilimǝnki, mǝn jǝzmǝn bügün uning aldida ayan bolimǝn, dedi.
Ê-li đáp rằng: Ta chỉ sanh mạng Đức Giê-hô-va vạn quân, là Đấng ta phục sự, mà thề rằng: Chính ngày nay ta sẽ ra mắt A-háp.
16 Xuning bilǝn Obadiya Aⱨabning ⱪexiƣa berip uningƣa hǝwǝr bǝrdi. Aⱨab Iliyas bilǝn kɵrüxkili bardi.
Vậy, Aùp-đia đi đón A-háp, và thuật lại cho người. A-háp bèn đi đón Ê-li.
17 Aⱨab Iliyasni kɵrgǝndǝ uningƣa: — Bu sǝnmu, i Israilƣa bala kǝltürgüqi?! — dedi.
Vừa khi A-háp thấy Ê-li, thì nói rằng: Có phải ngươi, là kẻ làm rối loạn Y-sơ-ra-ên chăng?
18 U jawab berip: — Israilƣa bala kǝltürgüqi mǝn ǝmǝs, bǝlki sǝn bilǝn atangning jǝmǝtidikilǝr! Qünki silǝr Pǝrwǝrdigarning ǝmrlirini taxlap Baal degǝn butlarƣa tayinip ǝgǝxkǝnsilǝr.
Ê-li đáp rằng: Chẳng phải tôi làm rối loạn Y-sơ-ra-ên đâu; bèn là vua và nhà cha vua, bởi vì vua đã bỏ điều răn của Đức Giê-hô-va, và đã tin theo thần Ba-anh.
19 Əmdi adǝm ǝwǝtip Karmǝl teƣida pütkül Israilni yenimƣa jǝm ⱪil, xundaⱪla Yizǝbǝlning dastihinidin ƣizalinidiƣan Baalning tɵt yüz ǝllik pǝyƣǝmbiri bilǝn Axǝraⱨning tɵt yüz pǝyƣǝmbirini yiƣdur, — dedi.
Vậy bây giờ vua hãy sai người đi nhóm cả Y-sơ-ra-ên, với bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh, và bốn trăm tiên tri của Aùt-tạt-tê, ăn tại bàn Giê-sa-bên, khiến họ đến cùng tôi trên núi Cạt-mên.
20 Xuning bilǝn Aⱨab Israillarning ⱨǝmmisigǝ adǝmlǝrni ǝwǝtip, pǝyƣǝmbǝrlǝrni Karmǝl teƣiƣa yiƣdurdi.
Vậy, A-háp sai người đi nhóm cả dân Y-sơ-ra-ên và những tiên tri đến núi Cạt-mên.
21 Iliyas barliⱪ hǝlⱪⱪǝ yeⱪin kelip: — Ⱪaqanƣiqǝ ikki pikir arisida arisaldi turisilǝr? Əgǝr Pǝrwǝrdigar Huda bolsa, uningƣa ǝgixinglar; Baal Huda bolsa, uningƣa ǝgixinglar, dedi. Əmma hǝlⱪ uningƣa jawab bǝrmǝy, ün-tin qiⱪarmidi.
Đoạn Ê-li đến trước mặt dân sự mà nói rằng: Các ngươi đi giẹo hai bên cho đến chừng nào? Nếu Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, khá theo Ngài; nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời, hãy theo hắn. Song dân sự không đáp một lời.
22 Iliyas hǝlⱪⱪǝ: — Pǝrwǝrdigarning pǝyƣǝmbǝrliridin pǝⱪǝt mǝn yalƣuz ⱪaldim. Əmma Baalning pǝyƣǝmbǝrliri tɵt yüz ǝllik kixidur.
Bấy giờ, Ê-li nói với dân sự rằng: Trong vòng những tiên tri của Đức Giê-hô-va, chỉ một mình ta còn lại; còn các tiên tri Ba-anh số là bốn trăm năm mươi người.
23 Əmdi bizgǝ ikki buⱪa berilsun. Ular ɵzlirigǝ bir buⱪini tallap, soyup parqilap otunning üstigǝ ⱪoysun, ǝmma ot yaⱪmisun. Mǝnmu baxⱪa bir buⱪini tǝyyar ⱪilip ot yaⱪmay otunning üstigǝ ⱪoyay.
Vậy, hãy cho chúng ta hai con bò đực; họ phải chọn một con cho mình, sả ra từ miếng, sắp để trên củi, nhưng chớ châm lửa. Còn ta, ta sẽ làm con bò kia, để nó trên củi, nhưng không châm lửa.
24 Silǝr bolsanglar, ɵz ilaⱨliringlarning namini qaⱪirip nida ⱪilinglar. Mǝn bolsam, Pǝrwǝrdigarning namini qaⱪirip nida ⱪilimǝn. Ⱪaysi Huda ot bilǝn jawab bǝrsǝ, xu Huda bolsun, dedi. Ⱨǝmmǝ hǝlⱪ: — Bu obdan gǝp, dǝp jawab bǝrdi.
Đoạn, hãy kêu cầu danh của thần các ngươi, còn ta, ta sẽ kêu cầu danh của Đức Giê-hô-va. Thần đáp lời bằng lửa, ấy quả là Đức Chúa Trời. Cả dân sự đều đáp rằng: Lời nói rất phải.
25 Iliyas Baalning pǝyƣǝmbǝrlirigǝ: Silǝr kɵp bolƣaq awwal ɵzünglar üqün bir buⱪini tallap tǝyyar ⱪilinglar; andin ⱨeq ot yaⱪmay ɵz ilaⱨinglarning namini ⱪiqⱪirip nida ⱪilinglar, dedi.
Ê-li bèn nói với những tiên tri Ba-anh rằng: hãy chọn một con bò đực, làm nó trước đi, vì các ngươi đông; rồi hãy cầu khẩn danh của thần các ngươi; nhưng chớ châm lửa.
26 Ular uning degini boyiqǝ ɵzlirigǝ berilgǝn buⱪini elip uni tǝyyar ⱪildi. Ətigǝndin qüxkiqǝ ular Baalning namini ⱪiqⱪirip: — I Baal, bizgǝ jawab bǝrgin! dǝp nida ⱪildi. Lekin ⱨeq awaz yaki ⱨeq jawab bolmidi. Ular raslanƣan ⱪurbangaⱨ qɵrisidǝ tohtimay sǝkrǝytti.
Vậy, chúng bắt con bò mà người ta đã ban cho mà làm nó; rồi từ sớm mai đến trưa, chúng cầu khẩn danh của Ba-anh, và rằng: Hỡi Ba-anh! xin đáp lời chúng tôi. Nhưng chẳng có tiếng gì, cũng chẳng ai đáp lời; chúng đều nhảy chung quanh bàn thờ mình đã dựng lên.
27 Qüx kirgǝndǝ Iliyas ularni zangliⱪ ⱪilip: — Ünlükrǝk ⱪiqⱪiringlar; qünki u bir ilaⱨ ǝmǝsmu? Bǝlkim u qongⱪur hiyalƣa qɵmüp kǝtkǝndu, yaki ix bilǝn qiⱪip kǝtkǝndu, yaki bir sǝpǝrgǝ qiⱪip kǝtkǝndu? Yaki bolmisa u uhlawatⱪan boluxi mumkin, uni oyƣitixinglar kerǝk?! — dedi.
Khi đã đến trưa, Ê-li nhạo chúng mà rằng: Khá la lớn lên đi, vì người là thần; hoặc người đang suy gẫm, hoặc ở đâu xa, hoặc đang đi đường; hay là có lẽ người ngủ, và sẽ thức dậy.
28 Ular tehimu ünlük qaⱪirip ɵz ⱪaidisi boyiqǝ ⱪanƣa milinip kǝtküqǝ ɵzlirini ⱪiliq wǝ nǝyzǝ bilǝn tilatti.
Vậy, chúng kêu lớn tiếng; và theo thói lệ họ, lấy gươm giáo gạch vào mình cho đến chừng máu chảy ra.
29 Qüxtin keyin ular «bexarǝt beriwatⱪan» ⱨalǝtkǝ qüxüp kǝqlik ⱪurbanliⱪ waⱪtiƣiqǝ xu ⱨalǝttǝ turdi. Lekin ⱨeq awaz anglanmidi, yaki jawab bǝrgüqi yaki ijabǝt ⱪilƣuqi mǝlum bolmidi.
Khi quá trưa rồi, họ cứ nói tiên tri như vậy cho đến giờ dâng của lễ chay ban chiều; nhưng vẫn không có tiếng gì, chẳng ai đáp lời, cũng không cố ý đến.
30 Iliyas ⱨǝmmǝ hǝlⱪⱪǝ: — Yenimƣa yeⱪin kelinglar, dedi. Ⱨǝmmǝ hǝlⱪ uningƣa yeⱪin kǝlgǝndin keyin u Pǝrwǝrdigarning xu yǝrdiki yiⱪitilƣan ⱪurbangaⱨini ⱪaytidin ⱪurup qiⱪti.
Bấy giờ, Ê-li nói với cả dân sự rằng: Hãy đến gần ta. Dân sự bèn đến gần người. Đoạn, Ê-li sửa lại cái bàn thờ của Đức Giê-hô-va bị phá hủy.
31 Iliyas on ikki taxni aldi. Bu taxlarning sani Pǝrwǝrdigarning «Naming Israil bolsun» degǝn sɵzini tapxuruwalƣan Yaⱪupning oƣulliridin qiⱪⱪan ⱪǝbililǝrning sani bilǝn ohxax idi.
Người lấy mười hai hòn đá, theo số mười hai chi phái của các con trai Gia-cốp, là người mà lời của Đức Giê-hô-va đã phán cho rằng: Y-sơ-ra-ên sẽ là tên ngươi.
32 Xu taxlardin u Pǝrwǝrdigarning nami bilǝn bir ⱪurbangaⱨni yasidi. U ⱪurbangaⱨning qɵrisidǝ ikki seaⱨ dan patⱪudǝk azgal kolidi.
Người dùng mười hai hòn đá ấy mà dựng lên một cái bàn thờ nhân danh Đức Giê-hô-va; chung quanh bàn thờ, người đào một cái mương đựng được hai đấu hột giống;
33 Andin u otunni rastlap, buⱪini parqilap otunning tɵpisigǝ ⱪoydi.
rồi chất củi, sả bò tơ ra từ miếng, và sắp nó lên trên củi. Kế người nói:
34 U: — Tɵt idixni suƣa toxⱪuzup uni kɵydürmǝ ⱪurbanliⱪ wǝ otunning üstigǝ tɵkünglar, — dedi. Andin: Yǝnǝ bir ⱪetim ⱪilinglar» — dewidi, ular xundaⱪ ⱪildi. U yǝnǝ: — Üqinqi mǝrtiwǝ xundaⱪ ⱪilinglar, dedi. Ular üqinqi mǝrtiwǝ xundaⱪ ⱪilƣanda
Hãy múc đầy bốn bình nước, và đem đổ trên của lễ thiêu và củi. Người lại nói: Hãy làm lần thứ nhì; thì người ta làm lần thứ nhì. Người tiếp: Hãy làm lần thứ ba, và họ làm lần thứ ba,
35 su ⱪurbangaⱨning qɵrisidin eⱪip qüxüp, kolanƣan azgalnimu su bilǝn toldurdi.
cho đến đỗi nước chảy chung quanh bàn thờ, và đầy cái mương nữa.
36 Kǝqlik ⱪurbanliⱪning waⱪti kǝlgǝndǝ Iliyas pǝyƣǝmbǝr ⱪurbanliⱪⱪa yeⱪin kelip mundaⱪ dua ⱪildi: — Əy Pǝrwǝrdigar, Ibraⱨim bilǝn Isⱨaⱪ wǝ Israilning Hudasi, Ɵzüngning Israilda Huda bolƣiningni axkara ⱪilƣaysǝn, xundaⱪla mening Sening ⱪulung bolup bularning ⱨǝmmisini buyruⱪung bilǝn ⱪilƣanliⱪimni bügün bildürgǝysǝn.
Đến giờ dâng của lễ chay ban chiều, tiên tri Ê-li đến gần và nguyện rằng: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Aùp-ra-ham, của Y-sác, và của Y-sơ-ra-ên, ngày nay xin hãy tỏ cho người ta biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời trong Y-sơ-ra-ên, rằng tôi là kẻ tôi tớ Ngài, và tôi vâng lời Ngài mà làm mọi sự này.
37 Manga ijabǝt ⱪilƣaysǝn, ǝy Pǝrwǝrdigar, ijabǝt ⱪilƣaysǝn; xuning bilǝn bu hǝlⱪⱪǝ sǝn Pǝrwǝrdigarning Huda ikǝnlikingni ⱨǝmdǝ ularning ⱪǝlblirini toƣra yolƣa yandurƣuqi ɵzüng ikǝnlikingni bildürgǝysǝn, dedi.
Đức Giê-hô-va ôi! Xin nhậm lời tôi, xin đáp lời tôi, hầu cho dân sự này nhìn biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, và Ngài khiến cho lòng họ trở lại.
38 Xuning bilǝn Pǝrwǝrdigarning oti qüxüp kɵydürmǝ ⱪurbanliⱪni, otunni, taxlarni wǝ topini kɵydürüp azgaldiki sunimu yoⱪitiwǝtti.
Lửa của Đức Giê-hô-va bèn giáng xuống, thiêu đốt của lễ thiêu, củi, đá, bụi, và rút nước trong mương.
39 Hǝlⱪlǝrning ⱨǝmmisi buni kɵrüpla, ular düm yiⱪilip: — Pǝrwǝrdigar, u Hudadur, Pǝrwǝrdigar, u Hudadur, deyixti.
Thấy vậy, cả dân sự sấp mình xuống đất, và la rằng: Giê-hô-va là Đức Chúa Trời! Giê-hô-va là Đức Chúa Trời!
40 Iliyas hǝlⱪⱪǝ buyrup: — Baalning pǝyƣǝmbǝrlirini tutunglar, ⱨeqⱪaysini ⱪoyup bǝrmǝnglar, — dedi. Ular ularni tutⱪanda Iliyas ularni kixun jilƣisiƣa elip berip, u yǝrdǝ ⱪǝtl ⱪildurdi.
Ê-li nói với chúng rằng: Hãy bắt các tiên tri của Ba-anh, chớ cho thoát một người nào. Chúng bèn bắt họ, Ê-li đem họ xuống dưới khe Ki-sôn, và giết họ tại đó.
41 Iliyas Aⱨabⱪa bolsa: — Qiⱪip yǝp-iqkin. Qünki ⱪattiⱪ yamƣurning xaldirliƣan awazi anglanmaⱪta, — dedi.
Đoạn, Ê-li nói cùng A-háp rằng: Hãy đi lên, ăn và uống, vì tôi đã nghe tiếng mưa lớn.
42 Aⱨab ⱪopup yǝp-iqix üqün qiⱪti. Əmma Iliyas Karmǝlning qoⱪⱪisiƣa qiⱪip yǝrgǝ engixip, bexini tizining otturisiƣa ⱪoyup tizlinip
Vậy, A-háp trở lên đặng ăn uống. Nhưng Ê-li leo lên chót núi Cạt-mên, cúi xuống đất và úp mặt mình giữa hai đầu gối.
43 hizmǝtkariƣa: — Qiⱪip dengiz tǝrǝpkǝ ⱪariƣin, dedi. U qiⱪip sǝpselip ⱪarap: — Ⱨeqnǝrsǝ kɵrünmǝydu, dedi. U jǝmiy yǝttǝ ⱪetim: — Berip ⱪarap baⱪⱪin, dǝp buyrudi.
Đoạn, người nói với kẻ tôi tớ mình rằng: Xin hãy đi lên, ngó về phía biển. Kẻ tôi tớ đi lên xem, nhưng nói rằng: Không có chi hết. Ê-li lại nói: Hãy trở lên bảy lần.
44 Yǝttinqi ⱪetim kǝlgǝndǝ u: — Mana, dengizdin qiⱪiwatⱪan, adǝm aliⱪinidǝk kiqik bir bulutni kɵrdum — dedi. Iliyas uningƣa: — Qiⱪip Aⱨabⱪa: — «Ⱨarwini ⱪetip tɵwǝngǝ qüxkin, bolmisa yamƣur seni tosuwalidu», dǝp eytⱪin, — dedi.
Lần thứ bảy, kẻ tôi tớ đáp rằng: Tôi thấy ở phía biển lên một cụm mây nhỏ như lòng bàn tay, Ê-li bèn tiếp: Hãy đi nói với A-háp rằng: Hãy thắng xe và đi xuống, kẻo mưa cầm vua lại chăng.
45 Angƣuqǝ asman bulut bilǝn tutulup, boran qiⱪip ⱪattiⱪ bir yamƣur yaƣdi. Aⱨab ⱨarwiƣa qiⱪip Yizrǝǝlgǝ kǝtti.
Trong một lúc, trời bị mây che đen, gió nổi dậy, và có cơn mưa rất lớn. A-háp bèn lên xe mình, đi đến Gít-rê-ên.
46 Pǝrwǝrdigarning ⱪoli Iliyasning wujudida turƣaq, u belini baƣlap Aⱨabning aldida Yizrǝǝlning kirix eƣiziƣiqǝ yügürüp mangdi.
Tay Đức Giê-hô-va giáng trên Ê-li; người thắt lưng, chạy trước A-háp cho đến khi tới Gít-rê-ên.

< Padixaⱨlar 1 18 >