< 14 >

1 O homem, nascido de mulher, é curto de dias, e farto de inquietação;
“Con người thật yếu đuối mong manh! Đời sống thật ngắn ngủi, nhưng đầy phiền muộn!
2 Ele sai como uma flor, e é cortado; foge como a sombra, e não permanece.
Chúng con như hoa sớm nở tối tàn. Như bóng câu vụt qua, chúng con vội vàng khuất bóng.
3 Contudo sobre este abres teus olhos, e me trazes a juízo contigo.
Chúa cần gì phải theo dõi gắt gao, và rồi đưa con ra xét xử?
4 Quem tirará algo puro do imundo? Ninguém.
Ai có thể đem điều trong sạch ra từ người ô uế? Không một người nào!
5 Visto que seus dias já estão determinados, e contigo está o número de seus meses, tu lhe puseste limites, [dos quais] ele não passará.
Chúa đã an bài số ngày của đời sống chúng con. Chúa biết rõ chúng con sống bao nhiêu tháng, và giới hạn không thể vượt qua.
6 Desvia-te dele, para que ele tenha repouso; até que, como o empregado, complete seu dia.
Xin Chúa ngoảnh mặt để chúng con yên thân! Chúng con như người làm thuê, được nghỉ ngơi sau ngày làm việc.
7 Porque há [ainda] alguma esperança para a árvore que, se cortada, ainda se renove, e seus renovos não cessem.
Ngay cả cây cũng còn hy vọng! Nếu bị đốn xuống, nó vẫn mọc lại và nứt ra nhiều cành lá xanh tươi.
8 Ainda que sua raiz se envelheça na terra, e seu tronco morra no solo,
Dù rễ nó già cỗi trong đất và gốc thối rữa mụt nát,
9 Ao cheiro das águas ela brotará, e dará ramos como uma planta nova.
vừa có hơi nước, nó sẽ nẩy chồi và cây liền nứt đọt như hạt giống mới.
10 Porém o homem morre, e se abate; depois de expirar, onde ele está?
Nhưng khi người chết, sức họ liền tan biến. Tắt hơi rồi người đến nơi đâu?
11 As águas se vão do lago, e o rio se esgota, e se seca.
Như nước bốc hơi khỏi hồ, như sông cạn khô nứt nẻ,
12 Assim o homem se deita, e não se levanta; até que não haja mais céus, eles não despertarão, nem se erguerão de seu sono.
con người nằm xuống và không trổi dậy nữa. Cho dù bầu trời cao tan biến, họ cũng sẽ không dậy, không gì đánh thức họ giữa giấc ngủ triền miên.
13 Ah, se tu me escondesses no Xeol, e me ocultasses até que a tua ira passasse, se me pusesses um limite de tempo, e te lembrasses de mim! (Sheol h7585)
Ước gì Chúa đem con giấu nơi âm phủ, và quên hẳn con cho đến khi cơn giận Ngài nguôi. Nhưng đến kỳ định, xin Ngài nhớ lại con! (Sheol h7585)
14 Se o homem morrer, voltará a viver? Todos os dias de meu combate esperarei, até que venha minha dispensa.
Người chết đi có thể sống lại chăng? Trọn những ngày lao khổ của đời con, con sẽ đợi cho đến kỳ giải thoát.
15 Tu [me] chamarás, e eu te responderei; e te afeiçoarás à obra de tuas mãos.
Bấy giờ Chúa gọi, con sẽ lên tiếng đáp lời, Chúa nhớ mong con, tạo vật của tay Chúa.
16 Pois então tu contarias meus passos, e não ficarias vigiando meu pecado.
Bấy giờ Chúa sẽ canh giữ bước chân con, thay vì canh chừng tội lỗi con.
17 Minha transgressão estaria selada numa bolsa, e tu encobririas minhas perversidades.
Tội lỗi con phạm sẽ được niêm phong trong túi, và Ngài sẽ che đậy gian ác của con.
18 E assim como a montanha cai e é destruída, e a rocha muda de seu lugar,
Nhưng, như núi lở tan tành từng mảnh, như đá lăn ra muôn phía,
19 E a água desgasta as pedras, e as enxurradas levam o pó da terra, assim também tu fazes perecer a esperança do homem.
như nước chảy đá mòn, như thác lũ cuốn trôi bùn đất, vì Chúa phá tan hy vọng của con người.
20 Sempre prevaleces contra ele, e ele passa; tu mudas o aspecto de seu rosto, e o despedes.
Chúa đè bẹp con người, rồi người phải qua đi. Chúa thay sắc diện người và đuổi người đi khuất.
21 Se seus filhos vierem a ter honra, ele não saberá; se forem humilhados, ele não perceberá.
Họ không bao giờ biết con cháu họ sẽ được tôn trọng hay thất bại ê chề, Nào ai biết được.
22 Ele apenas sente as dores em sua própria carne, e lamenta por sua própria alma.
Họ chỉ biết thân mình đau đớn; đời sống họ đầy dẫy khổ đau.”

< 14 >