< Matendu 1 >
1 Mlongu Teufili, mushintola sha kwanja nembiti kuusu vitwatira vyoseri Yesu vyakatenditi na kufunda kwanjira kwanja.
Hỡi Thê-ô-phi-lơ, trong sách thứ nhất ta, ta từng nói về mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm và dạy từ ban đầu,
2 Mpaka lishaka lilii pakanyasulitwi kugenda kumpindi kwa Mlungu. Pamberi pa kunyasulwa kugenda kumpindi, kawapananiti malagaliru kupitira Rohu Mnanagala wantumintumi walii yakawasyaguliti.
cho đến ngày Ngài được cất lên trời, sau khi Ngài cậy Đức Thánh Linh mà răn dạy các sứ đồ Ngài đã chọn.
3 Pakuhowa kwakuwi, yomberi kalilanguziyiti mweni kwa womberi na kulilanguziya nakaka kuwera mweni ka mkomu. Yomberi kawalawiriti kwa shipindi sha mashaka malongu msheshi na yomberi kayoweriti nawu kuusu Ufalumi wa Mlungu.
Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các sứ đồ, Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các sứ đồ trong bốn mươi ngày, phán bảo những sự về nước Đức Chúa Trời.
4 Shipindi shimu yomberi pakaweriti nawu, kawapananiti lagaliru ali, “Namlawa amu Yerusalemu, su muliheperi lagilu lya Tati, lilii lyampikaniriti neni nonga kuusu visoweru vyakuwi.
Lúc ở với các sứ đồ, Ngài dặn rằng đừng ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở đó chờ điều Cha đã hứa, là điều các ngươi đã nghe ta nói.
5 Toziya Yohani kawabatiziti kwa mashi, kumbiti pa mashaka gavuwa ndiri mwenga hamubatizwi kwa Rohu Mnanagala.”
Vì chưng Giăng đã làm phép báp-tem bằng nước, nhưng trong ít ngày, các ngươi sẽ chịu phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh.
6 Su wantumintumi pawaliwoniti pamuhera na Yesu, womberi wamkosiyiti, “Mtuwa, shipindi ashi haguwuziyi ufalumi kwa Israeli?”
Vậy, những người nhóm tại đó thưa cùng Ngài rằng: Lạy Chúa, có phải trong lúc nầy Chúa sẽ lập lại nước Y-sơ-ra-ên chăng?
7 Yesu kawagambira, “Vyamwenga ndiri kuvimana vipindi ama zitarehi Tati gwangu kavitula muukolamlima wakuwi.
Ngài đáp rằng: Kỳ hạn và ngày giờ mà Cha đã tự quyền định lấy, ấy là việc các ngươi chẳng nên biết.
8 Kumbiti hamwanki likakala Rohu Mnanagala pakawayizireni mwenga, na hamuweri wapitawu waneni Muyerusalemu na Muyudeya yoseri na Samariya na ata upeleru wa pasipanu.”
Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.
9 Pakatakuliti kala aga, pawaweriti wankulola yomberi kanyasulitwi kugenda kumpindi kwa Mlungu, liwundu limfifa nawamwona kayi.
Ngài phán bấy nhiêu lời rồi, thì được cất lên trong lúc các người đó nhìn xem Ngài, có một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không thấy nữa.
10 Pawaweriti wankali wankulola kumpindi yomberi kwakagenditi, palaa paliya wantu wawili yawavaliti nguwu nvufu wagolokiti pakwegela nawomberi,
Các người đó đang ngó chăm trên trời trong lúc Ngài ngự lên, xảy có hai người nam mặc áo trắng hiện đến trước mặt,
11 na walonga, “Mwenga wantu wa Galilaya! Iwera hashi mgoloka panu pamlola kumpindi? Yesu ayu, yakanyasulitwi kulawa kwa mwenga kugenda kumpindi, hakizi kayi kwa njira iraa ayi ntambu yamumwoniti pakagenda kumpindi kwa Mlungu.”
và nói rằng: Hỡi người Ga-li-lê, sao các ngươi đứng ngóng lên trời làm chi? Jêsus nầy đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy.
12 Shakapanu wantumintumi wawuyiti Yerusalemu kulawa kulugongu lwa Mizeyituni, kuweriti kilumita yimu kulawa mlushi.
Bấy giờ, các người đó từ núi gọi là Ô-li-ve trở về thành Giê-ru-sa-lem; núi ấy cách thành Giê-ru-sa-lem một quãng đường ước đi một ngày Sa-bát.
13 Pawasokiti mlushi, wayingiriti mshumba shawalikaliti, nawomberi waweriti Peteru na Yohani na Yakobu na Andereya na Filipu na Tomasi na Batolumayu na Matayu, Yakobu mwana gwa Alifayu na Simoni Zeloti na Yuda mwana gwa Yakobu.
Khi đã về đến, bèn lên một cái phòng cao kia, là nơi Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ con của A-phê, Si-môn Xê-lốt, và Giu-đe con của Gia-cơ thường ở.
14 Womberi woseri waliwoniti shipinga pamuhera kumluwa Mlungu, pamuhera na wadala na Mariya mawu gwa Yesu na walongu wakuwi Yesu.
Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các người đàn bà, và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Jêsus cùng anh em Ngài.
15 Mumashaka galii Peteru kagolokiti pakati pa wantu yawamjimira Kristu, weni walanga yawu waweriti miya yimu na malongu mawili, su yomberi kalongiti.
Trong những ngày đó, Phi-e-rơ đứng dậy giữa các anh em, -số người nhóm lại ước được một trăm hai mươi người, -mà nói rằng:
16 “Mwawalongu wangu, Malembu Mananagala gatimiya, geni Rohu Mnanagala katungiti kupitira Dawudi kuusu Yuda yakawalongoziyiti walii yawamkamuliti Yesu.
Hỡi anh em ta, lời Đức Thánh Linh đã nhờ miệng vua Đa-vít mà nói tiên tri trong Kinh Thánh về tên Giu-đa, là đứa đã dẫn đường cho chúng bắt Đức Chúa Jêsus, thì phải được ứng nghiệm.
17 Yuda kaweriti yumu gwa shipinga shetu, toziya mweni kasyagulitwi kaweri mtenda lihengu muyetu.”
Vì nó vốn thuộc về bọn ta, và đã nhận phần trong chức vụ nầy.
18 Su Yuda kahemeliti lirambu kwa mpiya zilii za ukondola zyakazipatiti, pakaweriti kulirambu yomberi kaguwiti na kahowa, kapantika na utumbu wakuwi witika kunja.
Tên đó lấy tiền thưởng của tội ác mình mà mua một đám ruộng, rồi thì nhào xuống, nứt bụng và ruột đổ ra hết.
19 Kila muntu yakalikaliti Muyerusalemu kapikaniriti visoweru vya vitwatira avi, na kwa likabira lyawu lirambu ali walishema Akelidama, mana yakuwi “Lirambu lya Mwazi.”
Sự đó cả dân thành Giê-ru-sa-lem đều biết chán, đến nỗi chúng gọi ruộng đó theo thổ âm mình là Hác-en-đa-ma, nghĩa là ruộng huyết. -
20 Peteru kalongiti, “Ilembwa mushintora sha Zaburi, ‘Numba yakuwi isigali hera, muntu yoseri nakalikala amu.’ Kayi ilembwa, ‘Muntu yumonga katoli lihengu lyakuwi.’
Trong sách Thi thiên cũng có chép rằng: Nguyền cho chỗ ở nó trở nên hoang loạn, Chớ có ai ở đó; lại rằng: Nguyền cho có một người khác nhận lấy chức nó.
21 “Su ifiruwa tumsyaguli muntu yumonga pakati pa walii yawaweriti pamuhera na twenga shipindi shoseri mtuwa Yesu pakingiriti na kulawa pakati penu.
Vậy, nội những kẻ đã theo cùng chúng ta trọn lúc Đức Chúa Jêsus đi lại giữa chúng ta,
22 Kwanjira kwa shipindi sha ubatizu wa Yohani mpaka lishaka lilii Yesu pakanyasulitwi kulawa kwatwenga kugenda kumpindi. Ifiruwa yumu gwawu kaweri kapitawu gwa kuzyuka kwakuwi pamhera natwenga.”
từ khi Giăng làm phép báp-tem cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi giữa chúng ta, phải có một người làm chứng cùng chúng ta về sự Ngài sống lại.
23 Su wakanda matawu ga wantu wawili, Yosefu yawamshema Barisaba viraa yomberi kamanikana kwa litawu lya Yustu, na Matiya.
Môn đồ cử ra hai người: Giô-sép tức là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giúc-tu, và Ma-thia,
24 Shakapanu wamluwa Mlungu, “Mtuwa, gwenga guyimana myoyu ya wantu woseri. Su gutulanguziyi pakati pa wawili awa ulii yagumsyaguliti,
rồi cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, Ngài biết lòng mọi người, xin tỏ ra cho chúng tôi nội hai người nầy ai là người Chúa đã chọn,
25 katoli lihengu lya utenderu wa untumintumi wa Yuda yakaulekiti su kagendi pahala pakuwi mweni.”
đặng dự vào chức vụ sứ đồ, thay vì Giu-đa đã bỏ đặng đi nơi của nó.
26 Shakapanu wagalambuziya simbi na kugalambuziya simbi aku kumtulukiriti Matiya, nayomberi kayongerwa mushipinga sha wantumintumi lilongu na yumu.
Đoạn, bắt thăm, trúng nhằm Ma-thia; người bèn được bổ vào mười một sứ đồ.