< Hakaraia 1 >
1 I te waru o nga marama, i te rua o nga tau o Tariuha, ka puta mai te kupu a Ihowa ki a Hakaraia, tama a Perekia, tama a Iro poropiti; i mea ia,
Tháng tám năm thứ hai Ða-ri-út, có lời của Ðức Giê-hô-va phán cùng đấng tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu, Y-đô, mà rằng:
2 Nui atu te riri o Ihowa ki o koutou matua.
Ðức Giê-hô-va đã rất không bằng lòng tổ phụ các ngươi.
3 Na mea atu ki a ratou, Ko te kupu tenei a Ihowa o nga mano: Tahuri mai ano ki ahau, e ai ta Ihowa o nga mano, a ka tahuri atu ano hoki ahau ki a koutou, e ai ta Ihowa o nga mano.
Vậy khá nói cùng chúng rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy trở lại cùng ta, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán, thì ta sẽ trở lại cùng các ngươi, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
4 Kei rite koutou ki o koutou matua, i karanga ra nga poropiti o mua ki a ratou, i mea, Ko te kupu tenei a Ihowa o nga mano, Tahuri mai inaianei i o koutou ara kino, i a koutou mahi kino: otiia kihai ratou i rongo, kihai hoki i whai taringa ki ahau, e ai ta Ihowa.
Chớ như tổ phụ các ngươi, các tiên tri xưa kia đã kêu họ mà rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Bây giờ khá xây bỏ đường dữ và việc làm dữ của các ngươi; nhưng họ chẳng nghe, chẳng hề để ý nghe ta, Ðức Giê-hô-va phán vậy.
5 Ko o koutou matua, kei hea ratou? a ko nga poropiti, e ora tonu ana ranei ratou ake aka?
Chớ nào tổ phụ các ngươi ở đâu? Và những tiên tri ấy có sống đời đời chăng?
6 Na, ko aku kupu me aku tikanga i whakahaua e ahau ki aku pononga, ki nga poropiti, kihai ranei o koutou matua i rokohanga e era? a hoki mai ana ratou, mea ana, Ka pera i ta Ihowa o nga mano i whakaaro ai kia meatia ki a matou, he mea whakarite ki o matou ara, ki a matou mahi; ka pera tonu tana ki a matou.
Song những lời phán và lề luật ta đã truyền cho tôi tớ ta là các đấng tiên tri, há chẳng kịp đến tổ phụ các ngươi sao? Nên họ đã trở lại và nói rằng: Mọi điều mà Ðức Giê-hô-va vạn quân đã định làm cho chúng ta theo như đường lối và việc làm của chúng ta, thì đã làm cho chúng ta như vậy.
7 I te rua tekau ma wha o nga ra o te tekau ma tahi o nga marama, ara o te marama Hepata, i te rua o nga tau o Tariuha, ka puta mai te kupu a Ihowa ki a Hakaraia tama a Perekia, tama a Iro poropiti; i mea ia,
Ngày hai mươi bốn tháng mười một, là tháng Sê-bát, trong năm thứ hai Ða-ri-út, có lời của Ðức Giê-hô-va phán cho đấng tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, như vầy:
8 I titiro ahau i te po, na ko tetahi tangata e noho ana i runga i te hoiho whero, a tu ana ia i roto i nga ramarama i te wharua; a i muri atu i a ia ko etahi hoiho, he whero, he kopurepure, he ma.
Ta thấy trong ban đêm: nầy, có một người cỡi ngựa hồng đứng trong những cây sim ở nơi thấp, và đằng sau người co những ngựa hồng, ngựa xám, ngựa trắng.
9 Na ka mea atu ahau, E toku ariki, he aha enei? A ka ki mai te anahera i korero ki ahau, Maku e whakaatu ki a koe te tikanga o enei.
Ta nói rằng: Hỡi chúa tôi, những ngựa ấy nghĩa là gì? thì thiên sứ nói cùng ta, bảo ta rằng: Ta sẽ chỉ cho ngươi những ngựa nầy nghĩa là gì.
10 Na ka oho mai te tangata i tu ra i roto i nga ramarama, ka mea, Ko nga mea enei i unga atu nei e Ihowa hei haereere i te whenua.
Người đứng trong những cây sim đáp rằng: Ðây là những kẻ mà Ðức Giê-hô-va sai đi lại trải qua đất.
11 Na ka whakahoki ratou ki te anahera a Ihowa e tu ana i roto i nga ramarama, ka mea, Kua haereerea e matou te whenua, nana, kei te ata noho te whenua katoa, kei te marie.
Chúng nó bèn đáp lại cùng thiên sứ đứng trong những cây sim rằng: Chúng tôi đã đi lại trải qua đất; nầy, cả đất đều ở yên và im lặng.
12 Katahi ka oho te anahera a Ihowa, ka mea, E Ihowa o nga mano, kia pehea te roa ou ka kore nei e tohu i Hiruharama, i nga pa o Hura, e mauaharatia nei e koe i enei tau e whitu tekau?
Bấy giờ thiên sứ của Ðức Giê-hô-va đáp rằng: Hỡi Ðức Giê-hô-va vạn quân! Ngài sẽ không thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa cho đến chừng nào, là những thành Ngài đã nổi giận nghịch cùng nó bảy mươi năm nay?
13 Na ka whakahoki a Ihowa ki te anahere i korero nei ki ahau, he kupu pai, ara he kupu whakamarie.
Ðức Giê-hô-va lấy những lời lành, những lời yên ủi đáp cùng thiên sứ đương nói với ta.
14 Heoi ka mea ki ahau te anahera i korero nei ki ahau, Karanga atu koe, mea atu, Ko te kupu tenei a Ihowa o nga mano, He nui te hae i hae ai ahau ki Hiruharama, ki Hiona.
Ðoạn, thiên sứ đương nói cùng ta, bảo ra rằng: Khá kêu lên va núi rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân có phán: Ta vì Giê-ru-sa-lem và Si-ôn động lòng ghen quá lắm;
15 A he tino nui toku riri ki nga iwi e noho humarie ana: he iti noa ra hoki toku riri, a na ratou i whakatetere te he.
và ta rất không đẹp lòng các dân tộc đương yên vui; vì ta hơi không bằng lòng, và chúng nó càng thêm sự khốn nạn.
16 Mo reira ko te kupu tenei a Ihowa: Kua hoki mai ahau ki Hiruharama i runga i te tohu tangata; ka hanga toku whare ki reira, e ai ta Ihowa o nga mano, a ka whakamarokia he aho ki runga ki Hiruharama.
Vậy nên Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Ta lấy lòng thương xót trở về cùng Giê-ru-sa-lem; nhà ta sẽ xây lại trong nó, dây mực sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
17 Karanga atu ano, mea atu, Ko te kupu tenei a Ihowa o nga mano Tera oku pa e rauroha noa atu i te pai; a tera a Ihowa ka whakamarie i Hiona, tera ka whiriwhiri i Hiruharama.
Hãy kêu lần nữa mà rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Các thành ta sẽ còn đầy tràn sự thịnh vượng, Ðức Giê-hô-va sẽ còn yên ủi Si-ôn, và còn kén chọn Giê-ru-sa-lem.
18 Na ka maranga ake oku kanohi, a ka kite ahau, nana, e wha nga haona.
Ðoạn, ta ngước mắt lên, ta nhìn xem, nầy, có bốn cái sừng.
19 Na ka mea ahau ki te anahera i korero nei ki ahau, He aha enei? Ano ra ko ia ki ahau, Ko nga haona enei nana i whakamarara a Hura, a Iharaira, a Hiruharama.
Ta bèn nói cùng thiên sứ đương nói với ta rằng: Những vật ấy là gì? Người đáp cùng ta rằng: Ấy là những sừng đã làm tan tác Giu-đa, Y-sơ-ra-ên, và Giê-ru-sa-lem.
20 Na ka whakakitea e Ihowa etahi kamura ki ahau, tokowha.
Ðoạn, Ðức Giê-hô-va cho ta xem bốn người thợ rèn;
21 Katahi ahau ka mea, I haere mai enei ki te aha? A ka korero tera, ka mea, Ko nga haona enei nana i whakamarara a Hura, i kore ai e ara te mahunga o tetahi: otira i haere mai enei ki te whakawehi i a ratou, ki te whakataka iho i nga haona o nga t auiwi, o te hunga i ara nei to ratou haona ki te whenua o Hura, ki te titaritari i a ia.
thì ta hỏi rằng: Những kẻ nầy đến làm chi? Ngài đáp rằng: Ấy đó là những sừng đã làm tan tác Giu-đa, cho đến nỗi không người nào ngóc đầu lên được; nhưng những kẻ nầy đã đến để làm kinh hãi chúng nó, và để ném xuống những sừng của các nước đã cất sừng lên nghịch cùng đất Giu-đa đặng làm tan tác nó.