< Hiperu 4 >

1 Na, kia mataku tatou, i te mea ka tukua iho nei he korero pai mo tatou kia tae atu ki tona okiokinga, kei tirohia mai tetahi o koutou kua mahue ki muri.
Trong thời hạn Đức Chúa Trời dành cho con người vào nơi an nghỉ, chúng ta phải lo sợ giữ mình để khỏi một ai bị loại trừ.
2 He mea kauwhau hoki te rongopai ki a tatou, he pera ano me tera i a ratou: heoi kihai te kupu i rangona i whai pai ki a ratou; no te mea kihai i whakananua ki te whakapono i roto i te hunga i rangona ai.
Vì Phúc Âm được truyền giảng cho chúng ta cũng như cho người thời Môi-se, nhưng họ không được cứu, vì nghe mà không tin nhận.
3 Ka taea hoki te okiokinga e tatou kua whakapono nei; ka rite ki tana i ki ra, Na reira i riri ai ahau, i oati ai hoki, e kore ratou e tae ki toku okiokinga: kua oti na hoki nga mahi i te timatanga ra ano o te ao.
Còn chúng ta đã tin nhận Chúa, nên được vào nơi an nghỉ của Ngài. Đức Chúa Trời phán: “Trong cơn thịnh nộ, Ta đã thề: ‘Họ chẳng bao giờ được vào nơi an nghỉ Ta.’” Dù Ngài đã hoàn tất mọi việc và chờ đợi họ từ khi sáng tạo vũ trụ.
4 Ko tana kupu hoki tenei i tetahi wahi mo te ra whitu, A ka okioki te Atua i te ra whitu i ana mahi katoa.
Thật vậy, Thánh Kinh chép: “Sau khi hoàn tất mọi việc, Đức Chúa Trời an nghỉ vào ngày thứ bảy.”
5 I tenei wahi ano hoki, E kore ratou e tae ki toku okiokinga.
Nhưng họ không được an nghỉ vì Đức Chúa Trời tuyên bố: “Họ chẳng bao giờ được vào nơi an nghỉ Ta.”
6 Na, tera atu ano he taenga mo etahi ki reira; kihai hoki te hunga i kauwhautia ai te rongopai ki a ratou i mua i tae, no te mea kahore o ratou whakapono:
Tuy nhiên, lời hứa của Đức Chúa Trời vẫn còn hiệu lực, nên một số người được vào nơi an nghỉ. Còn những người trước kia đã nghe Phúc Âm nhưng không tin nhận, đều không được vào.
7 A ka motuhia mai e ia tetahi ra, i a ia i mea ra i ta Rawiri, Hei aianei, i muri i taua wa roa ra; ko te kupu hoki tenei, Hei aianei, ki te rongo koutou ki tona reo, kaua e whakapakeketia o koutou ngakau.
Do đó Đức Chúa Trời lại định một thời hạn khác gọi là “ngày nay” là thời hiện tại. Sau khi loài người thất bại một thời gian dài, Chúa dùng Đa-vít nhắc lại lời hứa trước kia: “Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, đừng ngoan cố, cứng lòng.”
8 Mehemea hoki i whai okiokinga ratou i a Hohua, e kore e korerotia e ia tetahi atu ra i muri iho.
Nếu Giô-suê thật sự đưa họ vào nơi an nghỉ, tất nhiên Đức Chúa Trời chẳng cần ấn định thêm một thời hạn nữa.
9 Ina, tera atu ano he hapati okiokinga mo te iwi o te Atua.
Vậy, vẫn còn ngày an nghỉ cho dân Chúa.
10 Ki te tae hoki te tangata ki tona okiokinga, ka okioki ano ia i ana mahi ake, ka pera me te Atua i okioki i ana mahi ake.
Người nào vào nơi an nghỉ của Chúa cũng thôi làm việc riêng, như Chúa đã nghỉ công việc của Ngài.
11 Na, kia puta to tatou uaua ki te tomo ki taua okiokinga, kei pera te whakaponokore o tetahi, a ka hinga.
Vậy chúng ta hãy cố gắng vào nơi an nghỉ đó, để không một ai bị loại trừ vì theo gương những người ngoan cố không tin.
12 Ora tonu hoki te kupu a te Atua, mana tonu, koi rawa atu i tetahi hoari matarua, ngoto tonu, a wehea noatia te ngakau me te wairua, nga ponapona me te hinu wheua, a wawae ana ano i nga whakaaro, i nga hihiritanga o te ngakau.
Lời Đức Chúa Trời sống động và đầy năng lực, sắc hơn gươm hai lưỡi, mổ xẻ hồn linh, xương tủy, phân tích tư tưởng, và ước vọng trong lòng.
13 Kahore hoki he mea hanga i ngaro ki tona aroaro: heoi e takoto kau ana, e tuwhera ana nga mea katoa ki ona kanohi, kei a ia nei he kupu mo tatou.
Chẳng có vật gì che giấu được mắt Chúa, nhưng tất cả đều lột trần, phơi bày trước mặt Ngài vì ta phải tường trình mọi việc cho Ngài.
14 Na, he tino tohunga nui to tatou, kua tomo ki nga rangi, a Ihu, te Tama a te Atua, kia mau pu tatou ki te tikanga i whakaaetia e tatou.
Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời, là Thầy Thượng Tế đã từ trời giáng thế và trở về trời để cứu giúp chúng ta, nên chúng ta hãy giữ vững niềm tin nơi Ngài.
15 Ehara hoki to tatou i te tohunga nui e kore e ahei kia mamae tahi me tatou e ngoikore nei; i whakamatautauria nei hoki ia i nga mea katoa, i i peneitia me tatou, kahore ia he hara.
Thầy Thượng Tế ấy cảm thông tất cả những yếu đuối của chúng ta, vì Ngài từng trải qua mọi cám dỗ như chúng ta, nhưng không bao giờ phạm tội.
16 Na, kia haere maia atu tatou ki te torona o te aroha noa, kia puta mai ai ki a tatou te mahi tohu, kia kitea ai e tatou ta te aroha noa hei awhina mai mo nga wa e mate ai.
Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngai Đức Chúa Trời để nhận lãnh tình thương và ơn phước giúp ta khi cần thiết.

< Hiperu 4 >