< Kenehi 35 >
1 Na ka mea te atua ki a Hakopa, Whakatika, haere ake ki Peteere, ki reira noho ai; ka hanga hoki ki reira i tetahi aata ma te Atua i puta mai nei ki a koe, i tou rerenga mai i te aroaro o Ehau, o tou tuakana.
Đức Chúa Trời phán cùng Gia-cốp: “Con hãy lên định cư tại Bê-tên và lập một bàn thờ cho Ta, Đấng đã hiện ra và gặp con lúc con đang chạy trốn Ê-sau, anh con.”
2 Katahi ka mea a Hakopa ki tona whare, ki ona tangata katoa hoki, Whakarerea atu nga atua ke i roto i a koutou, e pure i a koutou, a kakahuria etahi kakahu ke mo koutou:
Gia-cốp thuật lại điều này cho cả gia nhân quyến thuộc và căn dặn: “Hãy bỏ hết các thần tượng, dọn mình cho thánh sạch, và thay quần áo đi.
3 A whakatika tatou, ka haere ake ki Peteere; a ka hanga e ahau ki reira tetahi aata ma te Atua i whakarongo mai nei ki ahau i te ra i pouri ai ahau, i tata ano hoki ki ahau i te huarahi i haere ai ahau.
Chúng ta hãy đứng dậy và lên Bê-tên. Ta sẽ lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời, Đấng nhậm lời ta trong ngày hoạn nạn và ở cùng ta suốt các chặng đường đời.”
4 Na ka homai e ratou ki a Hakopa nga atua ke katoa i roto i to ratou ringa, me nga whakakai i o ratou taringa; a ka huna e Hakopa ki raro i te oki i Hekeme.
Họ liền nạp cho Gia-cốp các pho tượng đang cất giấu và các đôi bông tai họ đang đeo. Gia-cốp đem chôn hết dưới gốc cây sồi tại Si-chem.
5 Na ka turia atu e ratou: i runga ano te wehi o te Atua i nga pa i tetahi taha i tetahi taha o ratou, a kihai ratou i whai i nga tama a Hakopa.
Gia đình Gia-cốp nhổ trại ra đi. Đức Chúa Trời làm cho dân các thành phố chung quanh khiếp sợ, và họ không dám đuổi theo các con trai Gia-cốp.
6 Heoi ka tae a Hakopa ki Rutu, ki tera hoki i te whenua o Kanaana, ara ki Peteere, a ia me tona nuinga katoa.
Gia-cốp và cả gia đình đến thành phố Bê-tên, mà người Ca-na-an gọi là Lu-xơ.
7 A ka hanga e ia he aata ki reira, a huaina iho e ia taua wahi ko Erepeteere: no te mea hoki i puta mai te Atua ki a ia i reira, i tona rerenga i te aroaro o tona tuakana.
Gia-cốp xây dựng một bàn thờ và đặt tên nơi đó là Ên-bê-tên, vì Đức Chúa Trời đã xuất hiện và gặp ông tại đây trong ngày ông chạy trốn anh mình.
8 Na ka mate a Tepora kaiwhakangote o Ripeka, a ka tanumia ki raro i Peteere, ki raro i te oki; a ka huaina to reira ingoa ko Aronipakuta.
Đê-bô-ra, vú nuôi của Rê-bê-ca, qua đời và được an táng tại Bê-tên, dưới gốc một cây sồi mang tên là A-long-ba-cúc.
9 I puta mai ano te Atua ki a Hakopa i tona haerenga mai i Paranaarama, i manaaki hoki a ia.
Đức Chúa Trời lại xuất hiện và gặp Gia-cốp lần thứ nhì, sau khi ông lìa xứ Pha-đan A-ram.
10 A ka mea te Atua ki a ia, Ko Hakopa tou ingoa: e kore tou ingoa e huaina ko Hakopa a muri ake nei, engari ko Iharaira hei ingoa mou. Na huaina ana e ia tona ingoa ko Iharaira.
Ngài phán: “Tên cũ của con là Gia-cốp, nhưng đừng dùng tên ấy nữa. Tên con sẽ là Ít-ra-ên.” Ngài gọi ông là Ít-ra-ên.
11 I mea ano te Atua ki a ia, Ko ahau te Atua Kaha Rawa: kia hua koe, kia tini; kia puta he iwi, he huinga iwi ano hoki i roto i a koe, kia puta ano hoki nga kingi i roto i tou hope;
Đức Chúa Trời dạy tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Con hãy sinh sôi nẩy nở, không những thành một dân tộc, nhưng thành nhiều dân tộc. Dòng dõi con sẽ có nhiều vua chúa.
12 Ko te whenua hoki i hoatu e ahau ki a Aperahama raua ko Ihaka, ka hoatu ano e ahau ki a koe, ka hoatu ano hoki e ahau tena whenua ki ou uri i muri i a koe.
Ta sẽ cho con và dòng dõi con vùng đất Ta đã cho Áp-ra-ham và Y-sác.”
13 Na ka mawehe atu te Atua i a ia ki runga, i te wahi i korero ai ia ki a ia.
Kế đó, Đức Chúa Trời ngự lên khỏi nơi này.
14 Na ka whakaturia e Hakopa he pou ki te wahi i korero ai ia ki a ia, he pou kohatu: a ka ringihia e ia he ringihanga ki runga, a i ringihia hoki e ia he hinu ki runga.
Gia-cốp liền dựng tại đó một cây trụ đá, dâng lễ quán, và đổ dầu vào.
15 A huaina iho e Hakopa te ingoa o te wahi i korero ai te Atua ki a ia, ko Peteere.
Gia-cốp gọi địa điểm này là Bê-tên (nghĩa là “Nhà Đức Chúa Trời”), vì Đức Chúa Trời đã phán với ông tại đó.
16 Na ka hapainga atu e ratou i Peteere; a ka whano ka tae ratou ki Eparata: na ka whakawhanau a Rahera, ka whakauaua hoki tona whanautanga.
Gia-cốp cùng gia đình rời Bê-tên ra đi. Khi gần đến Ép-ra-ta, Ra-chên chuyển bụng và đau đớn dữ dội.
17 A, i te mea ka whakauaua tona whanautanga, ka mea te kaiwhakawhanau ki a ia, Kaua e wehi; ta te mea he tama ano tenei au.
Trong cơn quặn thắt, Ra-chên nghe người nữ hộ sinh khích lệ: “Bà đừng sợ, vì bà sắp sinh một con trai nữa.”
18 Na, i te mea ka haere tona wairua, i mate hoki ia, ka huaina e ia tona ingoa ko Penoni: na tona papa ia i hua ko Pineamine.
Ra-chên đang hấp hối và cố gắng đặt tên con là Bên-ô-ni (nghĩa là con trai tôi sinh trong sự đau đớn). Gia-cốp đổi tên con là Bên-gia-min (nghĩa là “con trai tay hữu ta”).
19 Na ka mate a Rahera, ka tanumia ki te ara ki Eparata, koia nei a Peterehema.
Ra-chên qua đời và được an táng tại Ép-ra-ta, (cũng gọi là Bết-lê-hem).
20 A ka whakaturia e Hakopa he pou ki runga ki tona rua: ko te pou ia o te rua o Rahera a tae noa ki tenei ra.
Gia-cốp dựng bia tại ngôi mộ Ra-chên, đến ngày nay vẫn còn.
21 Na ka turia atu e Iharaira, a ka whakaarahia e ia tona teneti ki tua atu i te pourewa i Erara.
Ít-ra-ên tiếp tục cuộc hành trình, đi qua tháp Ê-đa, và cắm trại để nghỉ chân.
22 A, i a Iharaira e noho ana i taua whenua, na ka haere a Reupena ka takoto ki a Piriha wahine iti a tona papa: a ka rongo a Iharaira. Na kotahi tekau ma rua nga tama a Hakopa:
Trong thời gian ở đó, Ru-bên vào ngủ với Bi-la, vợ lẽ của cha mình. Có người báo lại cho Gia-cốp. Đây là tên mười hai con trai của Gia-cốp:
23 Ko nga tama a Rea; ko Reupena, ko te matamua a Hakopa, ko Himiona, ko Riwai, ko Hura, ko Ihakara, ko Hepurona:
Các con của Lê-a là Ru-bên (trưởng nam của Gia-cốp), Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, và Sa-bu-luân.
24 Ko nga tama a Rahera; ko Hohepa raua ko Pineamine:
Các con của Ra-chên là Giô-sép và Bên-gia-min.
25 Ko nga tama a Piriha, pononga wahine a Rahera; ko Rana raua ko Napatari:
Các con của Bi-la, nữ tì của Ra-chên là Đan và Nép-ta-li;
26 Ko nga tama a Tiripa, pononga wahine a Rea; ko Kara raua ko Ahera: ko nga tama enei a Hakopa i whanau nei mana ki Paranaarama.
Các con của Xinh-ba, nữ tì của Lê-a là Gát và A-se. Trừ Bên-gia-min, tất cả các con trai của Gia-cốp đều sinh tại xứ Pha-đan A-ram.
27 Na kua tae a Hakopa ki a Ihaka, ki tona papa, ki Mamere, ki te pa o Arapa, ara ki Heperona, ki te wahi hoki i noho ai a Aperahama raua ko Ihaka.
Rốt cuộc, Gia-cốp về đến nhà cha mình Y-sác tại Mam-rê, thành phố Ki-ri-át A-ra-ba (nay gọi là Hếp-rôn), cũng là nơi cư ngụ của Áp-ra-ham ngày trước.
28 A kotahi rau e waru tekau tau nga ra o Ihaka.
Y-sác gặp lại con trai được một thời gian ngắn.
29 Na ka hemo a Ihaka, ka mate, ka kohia atu ki tona iwi, he koroheke, kua maha hoki ona ra: a na ana tama, na Ehau raua ko Hakopa ia i tanu.
Y-sác qua đời, hưởng thọ 180 tuổi, được hai con trai là Ê-sau và Gia-cốp an táng.