< Raniera 11 >

1 Ko ahau, i tu ake ahau i te tau tuatahi o Tariuha Meri, ki te whakau, ki te whakakaha i a ia.
“Tôi được sai đến đây để ủng hộ và tăng cường cho Đa-ri-út, người Mê-đi, trong năm đầu của triều vua này.”
2 Na, ka whakaatu ahau inaianei ki a koe i te pono. Nana, tera e ara ake ano etahi atu kingi e toru i Pahia; a, ko te tuawha, ka nui noa atu nga taonga i o te katoa. Na, kia kaha ia i ona taonga, ka whakaohokia e ia te katoa ki te whawhai ki te kin gitanga o Kariki.
“Bây giờ, tôi sẽ tiết lộ cho anh những diễn biến tương lai. Có ba vua sẽ lên ngôi trị vì nước Ba Tư, rồi vua thứ tư lên kế vị, giàu mạnh hơn các vua trước. Vua này sẽ dùng thế lực kim tiền để lung lạc các nước, xúi giục mọi dân hợp lực tiến công vào Hy Lạp.”
3 Na tera e tu ake tetahi kingi marohirohi, he nui tona kingitanga e kingi ai ia, a ka mahia e ia tana e pai ai.
“Có một vua sẽ lên ngôi, sáng lập một đế quốc vĩ đại mênh mông và thực hiện tất cả chương trình mình hoạch định.
4 A, ina tu ake ia, ka pakaru tona kingitanga, ka wehewehea atu ki nga hau e wha o te rangi; kahore ia ki o muri i a ia, e kore ano e rite ki tona kingitanga i kingi ai ia; no te mea ka hutia atu tona kingitanga, mo etahi atu ano ia ehara nei i ene i.
Nhưng khi đế quốc vừa đạt đến mức cực thịnh, nhà vua bất ngờ qua đời không truyền được ngai cho các con cháu, đế quốc bị chia làm bốn vương quốc, vì cả đất nước sẽ bị phân ra bốn phương trời và chia cho người ngoại tộc.
5 Na ka kaha te kingi o te tonga, me tetahi o ana rangatira; ka neke ake ano tona kaha ki runga ake i to tera, a ka kingi; hei kingitanga nui tona kingitanga.
Vua phương nam cố gắng tăng cường quân đội, mở rộng giang sơn, nhưng bị một gian thần phản bội cướp ngai và tăng cường thế lực hơn nữa.
6 Na i te mutunga o nga tau ka honoa raua, ka haere mai hoki te tamahine a te kingi o te tonga, ki te kingi o te raki ki te whakarite tikanga: otiia e kore e mau i taua wahine te kaha o tona ringa; e kore ano e tu te tane me tona ringa: heoi ka tuk ua atu te wahine, me te hunga nana ia i kawe mai, me te matua tane nana nei ia, me tona kaiwhakakaha i aua wa.
Nhiều năm sau đó, các vua ấy sẽ ký hiệp ước liên minh. Vua phương nam gả công chúa cho vua phương bắc để bảo đảm tình đoàn kết, nhưng rồi công chúa cũng bị thất sủng, nên niềm hy vọng của nàng và của cha nàng cũng tiêu tan. Sứ thần phương nam sẽ bị hạ nhục, thái tử nàng sinh cho vua phương bắc sẽ bị phế bỏ.
7 Otiia tera e tu ake tetahi i tona wahi, he manga no nga pakiaka o te wahine, a ka haere mai ki te taua, ka tomo ki te pa o te kingi o te raki, a ka mahi i roto i a ratou, ka kaha ano:
Em trai công chúa lên ngôi phương nam, đem quân đội tiến công và chiến thắng vua phương bắc.
8 Ka whakaraua ano e ia o ratou atua, a ratou whakapakoko whakarewa, a ratou oko ano hoki e matenuitia ana, nga mea hiriwa, nga mea koura ka kawea ki Ihipa; a ka mutu tana whawhai ki te kingi o te raki mo etahi tau.
Khi rút quân về Ai Cập, vua phương nam đem luôn tất cả các thần tượng phương bắc về nước với vô số chén dĩa khí dụng bằng vàng và bạc. Rồi vua phương nam để yên cho vua phương bắc một thời gian.
9 A ka haere ia ki te kingitanga o te kingi o te tonga, engari ka hoki ano ia ki tona ake whenua.
Vua phương bắc nhân cơ hội, thu hết lực lượng tấn công vào phương nam, nhưng chỉ được ít lâu phải rút quân về nước.
10 Na ka whawhai ana tama, a ka huihuia e ratou he ope, he maha nga taua: na ka haere mai aua ope, kei te waipuke te rite, a puta rawa atu: a ka hoki ratou, ka whawhai, a tae tonu ki to tera pa.
Các hoàng tử phương bắc lại động viên toàn lực, đem quân đội đông đảo, tràn ngập Ít-ra-ên và tấn công vào căn cứ quân sự quan trọng nhất của phương nam.
11 Na ka riri te kingi o te tonga, a ka puta mai, ka whawhai ki a ia, ara ki te kingi o te raki; a he nui te ope e ara i tenei, a ka hoatu te ope ki to tera ringa.
Vua phương nam nổi giận, tập trung quân đội tổng phản công và đánh tan quân đội phương bắc.
12 A ka whakaarahia te ope, ka kake tona ngakau: a ka whakataka e ia nga mano tini, otiia e kore ia e whai kaha.
Say men chiến thắng, vua tàn sát hàng vạn chiến sĩ địch, nhưng chỉ áp đảo phương bắc được một thời gian ngắn.
13 Na ka hoki mai te kingi o te raki, maha atu hoki i o mua te ope e ara i a ia; a, ka tae mai ia i te mutunga o etahi wa, ara o nga tau, he nui tana ope, he nui nga taonga.
Vài năm sau, vua phương bắc sẽ quay lại tấn công phương nam kể cả các lực lượng Do Thái thân vua phương bắc,
14 I aua wa he tokomaha e whakatika ki te kingi o te tonga: ka whakakake ano nga tama tutu o tou iwi, kia tutuki ai te kite ra; otiia ka taka ratou.
đúng như lời tiên tri, nhưng vẫn không đánh bại nổi quân đội phương nam.
15 Heoi ka haere mai te kingi o te raki; ka haupuria ake ano he pukepuke e ia, a ka riro i a ia te pa he nui rawa nei te taiepa: e kore ano nga ringa o te tonga e u, e kore ano tana iwi i whiriwhiri ai, kahore he kaha e u ai.
Vua phương bắc và các nước đồng minh sẽ đem quân bao vây một thành phương nam có hệ thống phòng thủ rất kiên cố. Lúc ấy, quân đội phương nam mới bị đánh bại.
16 Otiia ko tenei ka haere mai nei ki a ia, ka mahia e ia tana e pai ai, e kore ano tetahi e tu ki tona aroaro: na ka tu ia ki te whenua ataahua, a kei tona ringa te whakangaromanga.
Vua phương bắc kéo đại quân vào chiếm đóng đất nước phương nam, như thác lũ, không lực lượng kháng chiến nào chặn đứng nổi. Vua cũng vào chiếm đóng xứ vinh quang và thả quân cướp bóc người dân.
17 Ka anga ano tona mata, ka mea kia haere mai ia i runga i te kaha o tona kingitanga katoa, me te hunga tika ano hei hoa mona; na ka mahi ia i tana e pai ai: ka homai ano e ia ki a ia te tamahine a nga wahine, hei takakino mana: otiia e kore tera e tu, e kore hoki e mahi mona.
Vua phương bắc lại dùng độc kế, giả ký kết ước liên minh với vua phương nam, gả công chúa cho vua phương nam để dùng công chúa làm nội tuyến, nhưng độc kế ấy thất bại.
18 I muri i tenei ka tahuri tona mata ki nga motu, a he maha e riro i a ia: otiia ma tetahi rangatira e mea kia mutu te ingoa kino e tapaea ana e ia: ae ra, ka meinga e ia tana whakaingoa kino kia hoki ki a ia ano.
Sau đó, vua phương bắc sẽ chuyển quân về đánh chiếm các hải đảo, nhưng bị một tướng chỉ huy của quân địch chận đứng rồi đẩy lui.
19 Katahi tona mata ka tahuri atu ki nga pa o tona whenua; otiia ka tutuki ona waewae, a ka hinga ia, kore ake e kitea.
Thất bại nhục nhã, vua quay về nước, nhưng nửa đường gặp nạn bất ngờ nên mất tích.
20 Katahi ka tu ake i tona wahi tetahi mana e mea he kaitono takoha kia takahi i roto i te kororia o te kingitanga: otiia kia torutoru ake nga ra ka whakangaromia ai, kahore he riri, kahore hoki he whawhai.
Vua kế vị sẽ cử một người thu thuế vô cùng hà khắc, bóc lột người Ít-ra-ên, nhưng vua chỉ trị vì một thời gian ngắn rồi chết cách bí mật, không phải vì thù hận hay chiến trận.
21 Ka whakatika ake ano ki runga ki tona wahi tetahi tangata e whakahaweatia ana, ehara nei te kororia o te rangatiratanga i te mea hoatu ki a ia: ka haere mai ia i te wa ata noho, a ka riro i a ia te kingitanga, na te patipati.
Vua mới lên ngôi là một kẻ gian ác, không phải là người được quyền kế vị nhưng khéo dùng lời xiểm nịnh và vận động ngầm mà cướp chính quyền nhân một cuộc khủng hoảng chính trị.
22 A ka taupokina ratou e nga ringa o te waipuke i tona aroaro, mongamonga noa ratou; me te rangatira ano hoki o te kawenata.
Tất cả lực lượng chống đối đều tan rã, kể cả vua của hiệp ước.
23 I muri ano i tana whakaaetanga korero ka mahi tinihanga ia: ka haere mai hoki ia, a ka kaha, he torutoru ano hoki ana tangata.
Vua hứa hẹn đủ điều nhưng chẳng bao giờ giữ lời hứa. Từ ban đầu, vua luôn luôn dùng thủ đoạn lừa bịp xảo quyệt nên bắt đầu chỉ có một nhóm nhỏ ủng hộ, nhưng chẳng bao lâu lực lượng trở nên hùng mạnh không ai chống nổi.
24 Hei te wa ata noho ka tae mai ia ki nga wahi momona ra ano o te kawanatanga; ka mahia e ia nga mea kihai i mahia e ona matua, e nga matua o ona matua; ka titaria ano e ia nga mea parakete, nga mea pahua, nga taonga, ki roto ki a ratou: ae ra, ka whakaaroa ano e ia ona whakaaro mo nga pa, a kia taka ra ano tetahi taima.
Vua sẽ thình lình tiến quân chiếm đóng những khu vực trù phú nhất trong nước và ra một chính sách chưa hề có trong lịch sử, là đem chiến lợi phẩm và tài sản chia cho dân. Vua sẽ bao vây và chiếm được rất nhiều căn cứ quân sự kiên cố, nhưng chỉ thành công được một thời gian.
25 Ka whakaohokia ano e ia tona kaha me tona maia ki te whawhai ki te kingi o te tonga, he nui te ope; ka oho ano hoki te kingi o te tonga, ka whawhai, he ope nui atu, he kaha atu; otiia e kore ia e tu: no te mea ka whakaaroa e ratou he whakaaro ki no mona.
Sau đó, vua sẽ hăng hái tuyển mộ và luyện tập một quân đội đông đảo rồi tấn công phương nam. Trong khi đó, vua phương nam cũng tổng động viên và đem đại quân phòng thủ đất nước, nhưng bị thất bại vì nội loạn.
26 Ina, ka pakaru ia i te hunga i kai i tana wahi kai, ko te taua hoki a tera kei te waipuke te rite: he tokomaha ano e hinga, mate rawa.
Chính bọn tay chân của nhà vua đảo chánh, quân lính đào ngũ rất đông và nhiều tướng sĩ tử trận.
27 Na ko enei kingi tokorua, ko o raua ngakau ka mea mo te kino, a ka korero teka raua i te tepu kotahi; otiia kahore he painga; ka noho tonu mai hoki te mutunga, hei te wa i whakaritea.
Hai phe dù cùng ngồi vào bàn hội nghị hòa bình nhưng vẫn ngấm ngầm âm mưu lừa bịp và tiêu diệt nhau. Tuy nhiên, không một phe nào hoàn toàn thắng thế, cho đến thời điểm Chúa đã ấn định.
28 Hei reira ia ka hoki ki tona whenua me nga taonga maha; a ko tona ngakau ka mea ki te takahi i te kawenata tapu; ka mahi ia i tana e pai ai, a ka hoki atu ki tona whenua.
Sau khi chiến thắng, vua phương bắc sẽ rút quân về nước, đem theo rất nhiều chiến lợi phẩm. Trên đường về, quân đội phương bắc dừng chân tại Ít-ra-ên và tàn phá đất nước này.
29 I te wa i whakaritea ka hoki ia, a ka haere mai ki te tonga; otiia e kore e rite to muri nei ki to mua ra.
Đến thời điểm Chúa đã ấn định, vua phương bắc lại đem quân tiến xuống phương nam, đúng như lời của vua đe dọa. Nhưng khác hẳn hai lần trước, lần này quân đội phương bắc gặp trở lực bất ngờ.
30 No te mea ka rere mai nga kaipuke o Kitimi ki te whawhai ki a ia. Na ka pouri ia, a ka hoki, ka riri ki te kawenata tapu, a ka mahi ia i tana e pai ai; a ka tino hoki ia, ka whai whakaaro ki te hunga i whakarerea ai te kawenata tapu.
Bị các tàu chiến Kít-tim đe dọa, vua phương bắc buộc lòng phải rút quân về nước. Căm thù vì thất bại nhục nhã, vua phương bắc liền trút niềm uất hận trên người dân của giao ước thánh và ưu ái những ai từ bỏ giao ước.
31 Ka ara ano etahi ringa hei whakauru mona, a ka whakapokea te wahi tapu, ara te wahi kaha, ka whakakahoretia ano e ratou te patunga tapu, te mea tuturu, ka tu ano i a ratou te mea whakarihariha, te mea whakangaro.
Vua phương bắc sẽ lập những tên Do Thái tàn bạo lên cầm quyền trong nước trước khi rút đại quân về phương bắc. Những kẻ ấy đã chối bỏ niềm tin của tổ phụ.
32 Na, ko te hunga e mahi kino ana ki te kawenata ka whakangaua ketia e ia, he mea whakapati nana: ko te hunga ia e mohio ana ki to ratou Atua, ka kaha ratou, ka mahi i nga mahi.
Vua sẽ đề cao những kẻ bội giao ước Chúa và kéo họ về phe mình. Nhưng những công dân đã biết Đức Chúa Trời sẽ quật khởi và lập nhiều thành tích lớn lao.
33 Na, ko te hunga whakaaro nui i roto i te iwi, he tokomaha a ratou e whakaako ai: otiia he maha nga ra e hinga ai ratou i te hoari, i te mura, i te whakarau, i te pahua.
Những người có thông thái giữa dân chúng sẽ dạy dỗ huấn luyện nhiều người. Nhưng mạng sống họ luôn luôn bị đe dọa, trong nhiều năm một số người sẽ bị lưu đày, tịch thu tài sản, hoặc bị xử tử bằng cực hình.
34 A ka hinga ratou, ka awhinatia mai ratou, he iti ia te awhina: he tokomaha ia e piri ki a ratou, he mea whakapati.
Áp lực nặng nề rồi sẽ giảm bớt và một số người vô đạo sẽ đến giả bộ ủng hộ bợ đỡ nhưng chỉ lợi dụng họ mà thôi.
35 Ka hinga ano etahi o te hunga matau, he mea e tahia ai to ratou para, e pokekore ai, e ma ai ratou, a taea noatia te wa o te whakamutunga: no te mea ko taua mea mo te wa ra ano i whakaritea.
Một số người khôn sáng ấy sẽ vấp ngã, nhưng lửa hoạn nạn càng thanh lọc, tôi luyện và thánh hóa họ cho đến cuối cùng là thời điểm Chúa đã định.
36 Ka mahia ano e te kingi tana e pai ai; ka whakaneke ake ano i a ia, ka whakanui i a ia ki runga ake i nga atua katoa, he whakamaharo ano ana whakapehapeha mo te Atua o nga atua; ka kake ano ia, taea noatia te whakapotonga o te riri: ka mahia hok i te mea i whakaritea.
Vua phương bắc ngày càng cường thịnh. Vua tự cho mình cao hơn các thần thánh, xúc phạm đến Đức Chúa Trời bằng những lời vô cùng phạm thượng, nhưng vua vẫn cường thịnh cho đến hết thời hạn Chúa đoán phạt dân Ngài, vì chương trình Chúa đã ấn định phải được thi hành nghiêm chỉnh.
37 E kore ano ia e whai whakaaro ki nga atua o ona matua, e hiahia ranei ki te wahine, e kore ano e whai whakaaro ki tetahi atua: no te mea ko ia tana e whakanui ai ki runga ake i te katoa.
Vua chẳng quan tâm đến thần của tổ phụ mình, cũng chẳng đếm xỉa đến thần được giới phụ nữ hâm mộ, vua không sùng bái các thần vì vua tự cho mình còn linh hơn các thần ấy.
38 Otiia i tona wahi ano ka whakahonoretia e ia te atua o nga wahi kaha; he atua kihai i mohiotia e ona matua tana e whakahonore ai ki te koura, ki te hiriwa, ki te kohatu utu nui, ki nga mea e matenuitia ana.
Vua chỉ biết thờ thần của các thành lũy: Vua sùng bái thần mà tổ phụ mình chưa biết, dâng hiến bạc vàng, ngọc ngà châu báu và các lễ vật quý nhất cho thần này.
39 Ko tana tenei e mea ai i nga wahi tino kaha, a ko tona hoa ko tetahi atua ke; ko te tangata e whakaae ana ki a ia ka whakanuia e ia ki te kororia: a ka meinga ratou e ia hei kawana mo nga tangata tokomaha, ka wehewehea ano hoki e ia te whenua mo tetahi utu.
Cậy thần ngoại bang, vua sẽ đánh tan các căn cứ quân sự kiên cố nhất. Vua sẽ trọng dụng những người đầu phục mình, bổ nhiệm họ giữ những chức vụ cao và chia đất cho họ để thưởng công.
40 A i nga wa o te mutunga ka whawhai te kingi o te tonga ki a ia: a ka kokiri mai te kingi o te raki ano he paroro te rite, me nga hariata, me nga kaieke hoiho, me nga kaipuke maha; a ka tomo ia ki nga whenua, ka paaha me te waipuke, a tika tonu a tu.
Cuối cùng, vua phương nam sẽ tấn công vua phương bắc. Vua phương bắc dùng toàn lực phản công như vũ bão, tung chiến xa, kỵ binh, và nhiều tàu chiến đánh tan quân đội phương nam.
41 Ka tae ano ia ki te whenua ataahua, a he maha nga whenua e hinga: ko enei ia e mawhiti i roto i tona ringa, ko Eroma, ko Moapa, ko nga upoko o nga tama a Amona.
Trong cuộc tiến quân, họ sẽ chiếm đóng nhiều xứ, kể cả Ít-ra-ên là xứ vinh quang và lật đổ nhiều nước, nhưng Mô-áp, Ê-đôm, và phần lớn người Am-môn sẽ thoát nạn.
42 Ka totoro ano tona ringa ki nga whenua: e kore ano te whenua o Ihipa e mawhiti.
Vua dang tay trên các nước, ngay cả Ai Cập cũng không thoát khỏi.
43 Otiia ka noho ko ia hei rangatira mo nga taonga, ara mo te koura, mo te hiriwa, mo nga mea katoa o Ihipa e matenuitia ana; a ka whai nga Rupimi me nga Etiopiana i ona takahanga.
Vua phương bắc sẽ chiếm đoạt các kho bảo vật của Ai Cập; Ly-bi và Ê-thi-ô-pi sẽ phục vụ vua.
44 Otiia ka raruraru ia i nga korero i te rawhiti, i te raki; na he nui te riri e puta mai ai ia, a he tokomaha ana e whakangaro ai, e huna ai.
Tuy nhiên, tin từ phương đông và phương bắc sẽ gây hoang mang và đảo lộn tất cả kế hoạch hành quân, nên vua giận dữ rút quân để đi tiêu diệt các lực lượng chống đối.
45 A ka whakaturia e ia nga teneti o tona whare kingi, ki waenganui o te moana, o te maunga tapu ataahua; otiia ka tae ia ki tona mutunga, kahore hoki he awhina mona.
Vua đóng đại bản doanh giữa Giê-ru-sa-lem và bờ biển, nhưng thời vận của vua đã hết, tả hữu đều phản bội, không ai chịu phò vua nữa.”

< Raniera 11 >