< 1 Kingi 13 >

1 Na ka tae mai tetahi tangata a te Atua i Hura ki Peteere, he mea ki na Ihowa: a i te tu a Ieropoama i te taha o te aata, e tahu whakakakara ana.
Đang khi Giê-rô-bô-am đứng gần bàn thờ, đặng xông hương, kìa, có một người của Đức Chúa Trời ở Giu-đa, vâng mạng Đức Giê-hô-va mà đến Bê-tên.
2 Na karangatia ana e ia ta Ihowa kupu ki te aata; i mea ia, E te aata na, e te aata na, ko ta Ihowa kupu tenei, Nana, tera e whanau tetahi tamaiti o te whare o Rawiri, ko Hohia tona ingoa, a ka tapaea e ia ki runga ki a koe nga tohunga o nga wahi tiketike e tahu whakakakara nei ki runga ki a koe; a ka tahuna he wheua tangata ki runga ki a koe.
Người vâng theo lời phán của Đức Giê-hô-va, quở trách bàn thờ mà nói rằng: Hỡi bàn thờ, bàn thờ! Đức Giê-hô-va phán như vầy: Một đứa con trai sẽ sanh ra cho nhà Đa-vít, tên nó là Giô-si-a. Nó sẽ dâng trên mầy những thầy tế lễ của các nơi cao, là người xông hương trên mầy, và người ta sẽ thiêu trên mầy hài cốt của người chết.
3 I hoatu ano e ia he tohu i taua ra, i mea, Ko te tohu tenei i korerotia e Ihowa, Nana, ka koara te aata, a ka maringi nga pungarehu o runga.
Trong ngày đó, thầy tiên tri tỏ một dấu lạ, rằng: Nầy là dấu lạ mà Đức Giê-hô-va đã phán: Bàn thờ sẽ nứt, tro trên bàn thờ sẽ đổ xuống đất.
4 A, no te rongonga o te kingi i te kupu a te tangata a te Atua i karangatia nei e ia ki te aata i Peteere, ka totoro te ringa o Ieropoama i te aata ka mea ia, Hopukia ia. Na memenge ake tona ringa i totoro nei ki a ia, kihai hoki i taea te whakaho ki mai ki a ia.
Khi vua Giê-rô-bô-am nghe lời hăm dọa mà người của Đức chúa Trời nói nghịch cùng bàn thờ tại Bê-tên, thì người giơ tay ra trên bàn thờ mà bảo rằng: Hãy bắt nó đi. Nhưng cánh tay vua giơ ra đối cùng tiên tri bèn trở nên khô, không thế co lại vào mình được.
5 Na kua koara te aata; maringi ake nga pungarehu i runga i te aata, i rite tonu ki te tohu i homai e te tangata a te Atua, ki ta Ihowa i korero ai.
Bàn thờ cũng nứt ra, và tro ở trên đổ xuống, y như dấu lạ mà người của Đức Chúa Trời đã vâng mạng Đức Giê-hô-va tỏ ra.
6 Na ka oho te kingi, ka mea ki te tangata a te Atua, Tena ra, karanga atu ki te aroaro o Ihowa, o tou Atua, ka inoi moku, kia whakahokia mai toku ringa ki ahau. Na ka karanga te tangata a te Atua ki te aroaro o Ihowa, a ka whakahokia te ringa o te kingi ki a ia, ka pera me to mua.
Bấy giờ, vua cất tiếng nói với người của Đức Chúa Trời rằng: Xin hãy nài xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi và cầu nguyện cho ta, hầu cho tay ta được lại như cũ. Người của Đức Chúa Trời cầu khẩn Đức Giê-hô-va, thì tay vua bèn co vào được, trở lại y như trước.
7 Na ka mea te kingi ki te tangata a te Atua, Haere mai taua ki te whare ki tetahi oranga mou, kia hoatu hoki e ahau tetahi mea ki a koe.
Vua bèn nói cùng người của Đức Chúa Trời rằng: Ngươi hãy về cung với ta đặng bổ sức lại, và ta sẽ dâng cho ngươi một lễ vật.
8 Na ka mea te tangata a te Atua ki te kingi, Ahakoa i homai e koe ko te hawhe o tou whare, e kore ahau e haere taua, e kore ano e kai taro, e inu wai ki tenei wahi.
Người của Đức Chúa Trời đáp lại cùng vua rằng: Dẫu vua ban cho tôi phân nửa gia sản vua, tôi cũng chẳng vào cung với vua, hoặc ăn bánh hay là uống nước tại nơi này;
9 Ko te ako hoki tenei ki ahau, ko ta Ihowa hoki i korero ai; i mea ai, Kei kai taro, kei inu wai; kaua ano e hoki mai na te ara e haere atu ai koe.
vì Đức Giê-hô-va đã phán dặn ta như vầy, rằng: Ngươi chớ ăn bánh, chớ uống nước, chớ noi con đường ngươi đã đi mà trở về.
10 Na haere ana ia he ara ke, kihai i hoki na te ara i haere mai nei ia ki Peteere.
Aáy vậy, người đi đường khác, chẳng trở lại đường người đã bắt đi đến Bê-tên.
11 Na i Peteere tetahi poropiti e noho ana, he koroheke; a, ka haere mai tetahi o ana tama, ka korerotia ki a ia nga mea katoa i mea ai te tangata a te Atua i taua ra ki Peteere; i korerotia ano e ratou ki to ratou papa nga kupu i korero ai ia ki t e kingi.
Vả, có một tiên tri già ở tại Bê-tên. Một con trai người đến học lại cho người mọi điều người của Đức Chúa Trời đã làm tại Bê-tên trong ngày đó, và các lời người đã nói với vua. Người cha nghe lời thuật này, thì hỏi con mình rằng:
12 Na ka mea to ratou papa ki a ratou, Tena koa te ara i haere ai ia? I kite hoki ana tama i te ara i haere atu ai te tangata a te Atua i haere mai nei i Hura.
Người ấy đi đường nào? Các con trai người chỉ con đường mà người của Đức Chúa Trời ở Giu-đa đã noi đi về.
13 Na ka mea ia ki ana tama, Whakanohoia taku kaihe. Na whakanohoia ana tana kaihe e ratou, a eke ana ia ki runga.
Người bèn nói cùng các con trai mình rằng: Hãy thắng lừa ta; chúng bèn thắng lừa, rồi người lên cỡi,
14 Na whaia ana e ia te tangata a te Atua, mau rawa atu e noho ana i raro i tetahi oki; a ka mea ki a ia, Ko koe ianei te tangata a te Atua i haere mai nei i Hura? Ano ra ko tera, Ae, ko ahau.
đi theo người của Đức Chúa Trời, gặp người ngồi dưới gốc cây thông, thì nói rằng: Có phải ngươi là người của Đức Chúa Trời ở Giu-đa đến chăng? Người đáp: Aáy là tôi.
15 Katahi ka mea ia ki a ia, Haere mai taua ki te whare ki te kai taro mau.
Tiên tri già tiếp rằng: Hãy đến nhà với ta đặng dùng bữa.
16 Ano ra ko ia, E kore e ahei kia hoki taua, kia haere atua; e kore ano taua e kai taro, e inu wai ranei ki tenei wahi.
Nhưng người đáp lại rằng: Tôi chẳng thể trở về với ông, cũng chẳng thể vào nhà ông, hoặc ăn bánh hay là uống nước với ông tại nơi này cũng không đặng;
17 Kua korerotia mai hoki ta Ihowa kupu ki ahau, Kei kai taro, kei inu wai ki reira, kei anga, kei haere mai na te ara ka haere atu nei koe.
vì Đức Giê-hô-va đã phán dặn tôi rằng: Ngươi chớ ăn bánh, chớ uống nước tại nơi đó, và cũng đừng trở lại theo con đường ngươi đã bắt đặng đi đến.
18 Na ka mea tera ki a ia, He poropiti ano ahau, he pena me koe; kua korerotia mai ano ki ahau te kupu a Ihowa e tetahi anahera: i ki mai ia, Whakahokia ia ki a koe, ki tou whare ki te kai taro mana, ki te inu wai. He teka ia nana ki a ia.
Người kia lại tiếp rằng: Ta cũng là tiên tri như ngươi. Vả, một thiên sứ vâng lịnh Đức Giê-hô-va có phán với ta rằng: hãy dẫn nó vào nhà với ngươi, hầu cho nó ăn bánh và uống nước. Nhưng người tiên tri này nói dối người.
19 Heoi hoki ana ia i a ia, a kai taro ana i roto i tona whare, inu wai ana.
Người của Đức Chúa Trời bèn trở lại với người, ăn và uống tại nhà người.
20 Na, i a raua e noho ana ki te tepu, ko te putanga mai o te kupu a Ihowa ki te poropiti nana nei ia i whakahoki:
Khi hai người đang ngồi bàn, có lời của Đức Giê-hô-va phán với tiên tri đã đem người về;
21 A ka karanga ia ki te tangata a te Atua i haere mai nei i Hura, ka mea, Ko ta Ihowa kupu tenei, Na, kua tutu nei koe ki te mangai o Ihowa, a kahore i mau i a koe te ako i ako ai a Ihowa, tou Atua ki a koe,
người liền kêu la cùng người của Đức Chúa Trời ở Giu-đa đến mà rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Bởi vì ngươi phản nghịch lời của của Đức Giê-hô-va, không giữ theo mạng lịnh mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã truyền cho ngươi,
22 Heoi hoki mai ana koe, kai taro ana, inu wai ana ki te wahi i korero ai ia ki a koe, Kei kai taro, kei inu wai; e kore e tae tou tinana ki te urupa o ou matua.
nhưng đã trở lại ăn bánh uống nước tại nơi mà Đức Chúa Trời đã cấm không cho ăn bánh hay uống nước tại đó, thì xác chết ngươi sẽ chẳng được chôn trong mồ mả của tổ phụ ngươi.
23 A ka mutu tana kai taro, ka mutu tana inu, na ka whakanohoia e ia te kaihe mona, ara mo te poropiti i whakahokia mai nei e ia.
Khi đã ăn uống xong, tiên tri già bèn thắng lừa cho tiên tri mình đã dẫn về.
24 Na, i tona haerenga, ka tutaki tetahi raiona ki a ia, ka whakamate i a ia: a ko tona tinana i akiritia ki te ara, me te kaihe ki tona taha tu ai; ko te raiona ano hoki i tu i te taha o te tinana.
Người liền đi: dọc đường người gặp một con sư tử và bị nó giết đi. Thây người nằm sải trên đường, có con lừa đứng một bên, còn sư tử cũng đứng gần bên thây.
25 Na, ka haere mai nga tangata, ka kite i te tinana i akiritia ra ki te ara, me te raiona e tu ana i te taha o te tinana: ka haere, ka korero i taua mea i te pa i noho ai te poropiti koroheke.
Có người đi ngang qua thấy thây nằm sải trên đường, và con sư tử đứng kế bên, thì đi đến trong thành của tiên tri già ở, thuật lại đều mình đã thấy.
26 A, no te rongonga o taua poropiti, nana nei ia i whakahoki mai i te ara, ka mea ia, Ko te tangata tena a te Atua kihai nei i whakarongo ki te mangai o Ihowa, a hoatu ana ia e Ihowa ki te raiona, a haea iho e ia, whakamatea iho; ko ta Ihowa kupu hoki tena i korero ai ki a ia.
Khi tiên tri già, là người đã khiến người của Đức Chúa Trời trở bước lại, nghe điều ấy, bèn nói rằng: Aáy là người của Đức Chúa Trời đã phản nghịch lời của Đức Giê-hô-va. Bởi vậy cho nên Đức Giê-hô-va đã phó người cho sư tử phân xé và giết đi, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
27 Na ka korero ia ki ana tama, ka mea, Whakanohoia taku kaihe, a whakanohoia ana e ratou.
Đoạn, người biểu các con trai mình rằng: Hãy thắng lừa ta. Chúng bèn thắng lừa.
28 Na haere ana ia, a rokohanga atu ko te tinana, he mea akiri ki te ara, me te kaihe raua ko te raiona e tu ana i te taha o te tinana; kihai te tinana i kainga e te raiona, kihai ano te kaihe i haea.
Người đi, gặp xác chết nằm trên đường, con lừa và con sư tử ở hai bên. Con sư tử không ăn xác chết và không phân xé con lừa.
29 Na hapainga ana te tinana o te tangata a te Atua e te poropiti, a whakatakotoria ana ki runga ki te kaihe, whakahokia ana; haere ana ki te pa o te poropiti koroheke ki te tangi, ki te tanu i a ia.
Tiên tri già cất xác của người Đức Chúa Trời lên, chở trên con lừa, đem về vào trong thành mình, đặng than khóc và chôn người.
30 Na whakatakotoria ana e ia tona tinana ki roto ki tona ake urupa; a ko ta ratou tangi mona, Aue, e toku teina.
Người chôn xác ấy trong mộ mình, rồi khóc người mà rằng: Thương ôi! anh ôi!
31 A, ka mutu tana tanu i a ia, ka korero ia ki ana tama, ka mea, Kia mate ahau, tanumia ahau ki roto ki te urupa i tanumia ai te tangata a te Atua; hei te taha o ona wheua whakatakoto ai i oku wheua.
Sau khi chôn xác rồi, người nói với các con trai mình rằng: Khi nào ta chết, các con hãy chôn ta vào mả đã chôn người của Đức Chúa Trời, để hài cốt ta ở bên hài cốt người.
32 No te mea tera e tino rite ta Ihowa korero i karangatia e ia mo tenei aata i Peteere, mo nga whare katoa hoki o nga wahi tiketike i nga pa o Hamaria.
Vì các lời hăm dọa người vâng mạng Đức Giê-hô-va mà nói nghịch cùng bàn thờ tại Bê-tên và nghịch cùng các chùa miễu tại trên những nơi cao ở trong các thành Sa-ma-ri, hẳn sẽ được ứng nghiệm.
33 I muri i tenei kihai a Ieropoama i tahuri i tona ara kino; engari i tahuri ano ki te mea tohunga no roto noa iho i te iwi katoa mo nga wahi tiketike: ahakoa ko wai i hiahia, kua whakatohungatia e ia, kia whai tohunga ai mo nga wahi tiketike.
Sau việc ấy, Giê-rô-bô-am không trở lại con đường ác mình, nhưng người lại lập cho các nơi cao những thầy tế lễ chọn trong đám dân sự; phàm ai tình nguyện, thì được người biệt riêng ra làm thầy tế lễ tại các nơi cao.
34 Na meinga ana tenei mea hei hara mo te whare o Ieropoama, hei mea e huna ai, e whakamotitia rawatia ai i te mata o te whenua.
Nhân vì cớ ấy nhà Giê-rô-bô-am phạm tội, đến đỗi bị diệt khỏi mặt đất.

< 1 Kingi 13 >