< Deotoronomia 28 >
1 Aa ie amy zao, naho janjiñe’o ty fiarañanaña’ Iehovà Andrianañahare’o hañorike vaho hanao ze hene lili’e lilieko azo androany le honjone’ Iehovà Andrianañahare’o ambone’ ze hene foko’ ty tane toy.
“Nếu toàn dân triệt để tuân hành mọi giới luật của Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, tôi truyền lại hôm nay, thì Ngài sẽ làm cho Ít-ra-ên thành một quốc gia hùng cường hơn mọi quốc gia khác.
2 Le hitotsak’ ama’o o fitahiañe rezao, toe hivotrak’ ama’o naho haoñe’o t’Iehovà Andrianañahare’o.
Anh em sẽ hưởng nhiều phước lành nếu anh em vâng phục Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em:
3 Ho tahie’e an-drova ao irehe, le ho tahie’e an-tonda ao.
Phước lành trong thành thị,
4 Ho tahie’e ty vokam-pañova’o, naho ty voka’ ty tane’o, naho ty voka’ o hare’oo, ty fibodobodoa’ o añombe’oo, naho ty fitomboa’ o anak’ añondri’oo.
Phước lành trên con cái hậu tự,
5 Ho tahie’e ty zahe’o naho ty akalam-bokoboko’o.
Giỏ đầy trái, thùng đầy bột của anh em
6 Ho tahie’e ty fiziliha’o naho ho tahie’e ty fiengà’o.
Bất cứ anh em đi đến đâu hay làm việc gì
7 Hampizevoñe’ Iehovà añatrefa’o eo ze rafelahi’o hitroatse haname azo; hiboaha’e an-koe, le mb’an-dalam-pito mb’eo ty hitribaña’e an-day.
Chúa Hằng Hữu sẽ đánh bại quân thù trước mặt anh em. Họ cùng nhau kéo ra đánh anh em, nhưng rồi tán loạn tẩu thoát!
8 Handily fitahiañe ama’o t’Iehovà, an-driha’o ao naho amy ze hene toloñem-pità’o, le ho tahie’e irehe an-tane atolo’ Iehovà Andrianañahare’o azo.
Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho vựa lẫm anh em tràn đầy, mọi công việc đều thịnh vượng, khi anh em sống trong đất Ngài cho.
9 Ho ventè’ Iehovà t’ie ondati’e miavake, amy nifantà’e ama’oy naho ambena’o o lili’ Iehovà Andrianañahare’oo vaho añaveloa’o o lala’eo.
Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho anh em thành dân thánh của Ngài như Ngài đã hứa, nếu anh em tuân giữ giới lệnh và đi trong đường lối Ngài.
10 Ho oni’ ze kila ondati’ ty tane toy t’ie kanjieñe amy tahina’ Iehovày vaho hañeveña’ iareo.
Mọi dân tộc trên hoàn cầu sẽ nhận biết Ít-ra-ên và sẽ kính nể anh em, vì anh em mang Danh Chúa Hằng Hữu.
11 Hampiraoraoe’ Iehovà o havokara’oo, ty vokam-pañova’o, naho ty fitomboa’ o añombe’oo naho ty havokara’ ty tete’o amy tane nifantà’ Iehovà an-droae’o hatolo’e azoy.
Chúa Hằng Hữu sẽ cho anh em thịnh vượng trong đất Ngài ban, kể cả con cháu đông đảo, súc vật đầy đàn, mùa màng phong phú, như Ngài đã hứa với tổ tiên chúng ta.
12 Ho sokafe’ Iehovà ama’o o riha’e fanjàkao: hampahavia’ i likerañey orañe an-tane’o eo an-tsa’e, le ho tahie’e ze hene fitoloñam-pità’o. Le hampisongo rofoko maro irehe fa tsy hisongo.
Chúa Hằng Hữu sẽ mở cửa kho tàng kỳ diệu trên trời cho anh em, mưa sẽ rơi đúng mùa, mọi việc anh em làm đều thành công mỹ mãn. Anh em sẽ cho các nước khác vay, nhưng Ít-ra-ên không mượn của ai.
13 Hanoe’ Iehovà lohà’e irehe fa tsy voli’e; le ho ambone avao irehe fa tsy ho ambane, naho tsatsihe’o o lili’ Iehovà Andrianañahare’o lilieko androanio naho hanoe’o an-tsontèñeñe
Vậy, nếu anh em vâng theo các giới lệnh của Chúa Hằng Hữu do tôi truyền lại hôm nay, thì Chúa Hằng Hữu sẽ cho anh em đứng đầu chứ không đứng cuối, anh em sẽ luôn luôn thăng tiến chứ không suy đồi.
14 naho tsy hivik’ ami’ty tsara inoñ’ inoñe lilieko anito, mb’am-pitàn-kavana, ndra mb’ankavia hañorike ‘ndrahare hafa hitoroña’o.
Đừng bao giờ lìa khỏi các giới lệnh này, cũng đừng thờ các thần khác.”
15 Fe ho avy ama’o, naho tsy haoñe’o ty fiarañanaña’ Iehovà Andrianañahare’o hambena’o naho hanoe’o o lili’eo naho o fañè’e lilieko azo androanio; eka hifetsak’ ama’o vaho hiambotraha’ o fonga fatse rezao:
“Nhưng nếu anh em không vâng lời Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, không tuân giữ các giới lệnh tôi truyền hôm nay, anh em phải hứng chịu các lời nguyền rủa sau đây:
16 Hafàtse irehe te an-drova vaho hafàtse te an-tetek’ ao.
Thành thị và đồng ruộng của anh em sẽ bị nguyền rủa.
17 Hafàtse ty haro’o naho ty akala fampibokobokoa’o mofo.
Bánh trái của anh em sẽ bị nguyền rủa.
18 Hafàtse ty vokam-pañova’o naho ty voka’ ty tane’o naho ty fitombo’ o hare’oo vaho o anak’añondrio’oo.
Hậu tự và việc trồng trọt của anh em sẽ bị nguyền rủa.
19 Hafàtse t’ie mimoake vaho hafàtse te miavotse.
Anh em đi nơi nào hoặc làm điều gì cũng bị nguyền rủa.
20 Haobo’ Iehovà ama’o ty ozoñe, ty hasalarañe, naho ty endake, amy ze toloñem-pità’o iaby am-para’ te rotsake, hikoromaha’o aniany, ty amo halòn-tseren-tsata’oo, ty amy niambohoa’o ahiy.
Chính Chúa Hằng Hữu sẽ nguyền rủa anh em. Anh em sẽ hoang mang, thất bại trong mọi công việc mình làm, cho đến ngày bị tiêu diệt vì tội ác đã phạm khi từ bỏ Ngài.
21 Hapite’ Iehovà ama’o ty angorosy am-para’ t’ie nabotse’e an-tane imoaha’o ho tavane’o añe.
Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho anh em mắc bệnh dịch cho đến lúc bị tiêu diệt hết, không còn ai sống trên đất Ngài cho nữa.
22 Haretsa’ Iehovà ama’o ty hiehie, ty firemboremboañe, ty sandri-mena, ty hatsovovohañe, ty fibara, ty mpikoli’e, ty bobongolo, hañoridañe azo am-para’ t’ie mongotse.
Chúa Hằng Hữu sẽ hành hại anh em bằng các bệnh như lao, sốt, phù thũng; và các thiên tai như nóng gắt, hạn hán; cây cỏ phải chết vì khô héo, vì nấm mốc. Tất cả những tai nạn này sẽ theo đuổi anh em cho đến khi anh em bị diệt sạch.
23 Ho torisìke i likerañe ambonen’ añ’ ambone’o eiy vaho ho viñe ty tane ambane’o eo.
Đối với anh em, trời sẽ trở nên như đồng, đất trở nên như sắt.
24 Hampinjarè’ Iehovà bo naho deboke ty orañ’ an-tane’o; boak’ andikerañe ty hiavia’e am-para’ te mianto irehe.
Thay vì mưa, Chúa Hằng Hữu sẽ cho bụi rơi xuống, cho đến lúc anh em bị hủy diệt.
25 Hampigiohe’ Iehovà irehe añatrefa’ o rafelahi’oo, hiavotse mb’ an-dalañe raike irehe hañoridañe iareo, f’ie hivoratsake mb’an-dalam-pito aolo’ iareo mb’eo, le ho fangebakebahañe amo fonga fifehea’ ty tane toio.
Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho anh em bị quân thù đánh bại. Anh em cùng nhau ra trận, nhưng rồi chạy trốn tán loạn. Anh em sẽ bị các dân tộc khác ghê tởm.
26 Ho fihina’ o fonga voron-tiokeo ty fate’o, naho o biby an-kivok’ ao le tsy eo ty hanao soike.
Xác chết của anh em sẽ bị chim rỉa thú ăn; anh em chẳng còn ai để đuổi chúng đi.
27 Hapao’ Iehovà ama’o ty bae-tovoa’ i Mitsraime, naho ty bohìñe naho ty hàteñe vaho ty hìly tsy mete janganeñe.
Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho anh em bị ung nhọt Ai Cập, bướu, hoại huyết, ghẻ ngứa—không cách nào chữa khỏi.
28 Ho kabohe’ Iehovà hadagolañe naho hagoan-drehe vaho hatsiborohetohan’ troke.
Ngài cũng bắt anh em phải mang bệnh điên, mù, và lảng trí.
29 Hitsapatsapa an-tsingilingiliñeñe irehe manahake ty fijebejebea’ ty tòfak’ an-kamoromoroña’e ao, le tsy hiraorao amo sata’oo, f’ie ho forekekeñe naho ho tavaneñe avao fa pitso-pandrombake.
Ngay giữa trưa, anh em đi quờ quạng như người mù trong đêm tối. Công việc anh em làm đều thất bại. Anh em sẽ bị áp bức, cướp giật thường xuyên mà không ai cứu giúp.
30 Hifofo valy irehe f’ie hiolora’ ondaty; hañoren-traño f’ie tsy himoneña’o, hambole tetem-bahe fe tsy ho toloñe’o o valobo’eo.
Vợ hứa của anh em sẽ bị người khác lấy. Anh em cất nhà mới nhưng không được ở. Trồng nho nhưng không được ăn trái.
31 Ho lentàñe aolom-pihaino’o eo ty vosi’o f’ie tsy hikama’o, ho tavaneñe añatrefan-dahara’o eo ty borìke’o fa tsy himpoly ama’o; hatolotse an-drafelahi’o o añondri’oo le tsy eo ty handrombake.
Bò của anh em nuôi sẽ bị người khác giết trước mặt mình, mà anh em không được ăn thịt. Lừa sẽ bị cướp ngay trước mặt, người ta không bao giờ trả lại. Chiên sẽ bị giao nạp cho quân thù, nhưng chẳng có ai giúp đỡ anh em.
32 Hatolotse ami’ty foko ila’e o anadahi’oo naho o anak’ ampela’oo le ho jilojiloem-pihaino’o lomoñandro iareo f’ie hilesa, vaho ho po-kaozarañe ty fità’o.
Con trai và con gái của anh em sẽ bị người nước khác bắt đi ngay trước mắt mình. Suốt ngày anh em chỉ mỏi mòn trông chờ con, nhưng không làm gì được vì bất lực.
33 Habotsem-poko tsy fohi’o ze fonga havokara’ o tane’oo naho ze hene fitoloña’o naho hampisoañeñe vaho ho demodemoheñe nainai’e,
Dân một nước xa lạ sẽ ăn hết mùa màng do công khó của anh em trồng trọt, suốt ngày anh em bị áp bức và chà đạp.
34 le ho seretse irehe am-pahaisaham-pihaino’o ty amo ho isa’oo.
Anh em sẽ điên dại vì những điều trông thấy.
35 Ho paohe’ Iehovà an-kòna tsy lefe melañeñe ty ongo’o naho kitso’o, toe boak’ an-dela-pandia’o pak’an-kevo’o eo.
Chúa Hằng Hữu sẽ làm cho anh em nổi ung nhọt từ đầu đến chân, không chữa khỏi được.
36 Hasese’ Iehovà mb’am-pifeheañe tsy nifohi’o, ihe ndra o roae’oo, rekets’ i mpanjaka najado’o ho mpifelek’ azoy; vaho añe ty hitoroña’o ty ndrahare ila’e: hatae naho vato.
Chúa Hằng Hữu sẽ đày anh em cùng với vua mình sang một nước xa lạ, tên của nước này anh em cũng như các tổ tiên chưa hề biết đến. Tại đó, anh em sẽ thờ cúng các thần bằng đá, bằng gỗ.
37 Le ho firevendreveñan-drehe, ho razan-drehake naho fañonjira’ ze hene foko hitehafa’ Iehovà azo añe.
Anh em sẽ bị ghớm ghiết, trở thành trò cười tại bất cứ nơi nào mà Chúa Hằng Hữu đưa anh em đến.
38 Hilogologo tabiry mb’ an-tetek’ ao irehe fe tsy ampeampe ty hatonto’o an-driha, fa habotse’ ty valala.
Anh em sẽ gieo giống thật nhiều nhưng gặt thật ít, vì châu chấu sẽ ăn hết mùa màng.
39 Hambole naho hañalahala tetem-bahe, fe tsy hinome’o ty divai’e, tsy hatonto’o o valobo’eo fa havorembore’ ty oletse.
Anh em trồng tỉa vườn nho nhưng không có nho ăn, rượu uống, vì sâu sẽ ăn hết.
40 Ho tsitsihen-katae olive ty tane’o fa ihe tsy hihoso-menake, amy te hihintsam-boa o hatae oliveo.
Mặc dù anh em có cây ô-liu khắp nơi trong lãnh thổ mình, anh em không có dầu ô-liu để dùng, vì trái cây đã héo rụng cả.
41 Hitoly ana-dahy naho anak’ampela fa tsy ho ama’o, homb’ am-pandrohizañe añe iereo.
Anh em sinh con nhưng sẽ không có con ở với mình, vì chúng nó bị bắt đi làm nô lệ.
42 Fonga ho tavane’ o valalao o hatae’oo naho ty voka’ o tane’oo.
Châu chấu sẽ cắn phá cây cối, mùa màng.
43 Hitoabotoabotse ambone’o ty renetane ama’o ao, ihe mirèke mañambane avao.
Người ngoại kiều sống trong nước sẽ được tôn trọng, còn chính anh em sẽ trở nên hèn mọn.
44 Hampisongo ama’o re, fa ihe tsy hampisongo ama’e, ie ty ho lohà’e le ihe ty ho ohi’e.
Họ sẽ cho anh em vay, chứ anh em đâu có cho ai vay được. Họ đứng đầu, anh em đứng chót.
45 Hifetsak’ ama’o i fàtse rezay naho hiridarida hanjòmotse azo ampara’ t’ie rotsake, amy te tsy nihaoñe’o ty fiarañanaña’ Iehovà Andrianañahare’o, tsy nambena’o o lili’e naho fañè’e nandilia’e azoo.
Những lời nguyền rủa trên sẽ theo đuổi và bắt kịp anh em, cho đến khi anh em bị tuyệt diệt vì không vâng lời Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, không tuân theo giới lệnh của Ngài.
46 Le ho viloñe naho halatsañe ama’o naho amo tarira’oo nainai’e kitro katroke irezay;
Những lời nguyền rủa này sẽ đổ trên anh em và con cháu anh em mãi mãi, đó là một điềm dữ, một điều kinh khiếp hãi hùng.
47 amy t’ie tsy nitoroñe Iehovà Andrianañahare’o am-pirebehañe naho an-kafalean’ arofo’o ty amo fitobahan-kavokarañe iabio.
Khi được thịnh vượng, anh em không hết lòng phục vụ Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em,
48 Aa le ho toroñe’o ty rafelahi’o nampañoridañe’ Iehovà ama’o, an-kasalikoañe, an-taliñiereñe, am-pihaloañe naho an-kararahañe vaho hanampeza’e joka vy ty fititia’o am-para te rotsake.
cho nên Ngài sẽ bắt anh em phục dịch quân thù trong cảnh đói khát, trần truồng, thiếu thốn đủ mọi phương diện: Ngài tra ách bằng sắt vào cổ anh em cho đến ngày anh em bị tiêu diệt.
49 Hendese’ Iehovà hirik’ an-tsietoitane, boak’ añ’olo-ty tane toy añe, manahake ty fitsiritsion-tsimalaho; ty foko tsy fohi’o fisaontsy;
Chúa Hằng Hữu sẽ dẫn một dân tộc từ nơi xa xôi đến đánh anh em đột ngột như phượng hoàng tấn công. Họ nói một thứ tiếng anh em không hiểu,
50 t’indaty mihelok’ an-tarehe’e, tsy mañaoñe ondaty bey, tsy miferenaiñe ty kede.
vẻ mặt họ hung dữ, họ không trọng người già, không quý người trẻ.
51 Mbore habotse’e ty tiri’ o añombe’oo, naho ty havokara’ ty tane’o am-para’ t’ie rotsake; tsy hapo’e ty tsako, ty divai-vao, ty menake, vaho ty fitomboa’ o bibi’oo naho o anan-dia-rai’oo ampara’ t’ie nampimomohe’e.
Họ sẽ ăn hết súc vật, mùa màng của anh em, chẳng để lại cho anh em thứ gì cả, dù là ngũ cốc, rượu, dầu hay bò, chiên.
52 Le hiarikoboña’e o fonga rova’oo ampara’ te mihotrake o kijoli-abo niatoa’o an-tane’oo; vaho hamalañ’ azo re an-dalam-bein-drova’o iaby, hanitsike i tane’ natolo’ Iehovà Andrianañahare’o azoy.
Họ sẽ vây hãm các thành, phá vỡ các tường thành cao và kiên cố, là những tường thành anh em từng tin tưởng. Chúng sẽ vây hãm khắp xứ mà Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời anh em ban cho anh em.
53 Le ho kamae’o ty vokam-pañova’o, ty nofo’ o ana-dahi’o naho o anak’ ampela’o natolo’ Iehovà Andrianañahare’o azoo, amy fiarikoboñañey naho amy haemberañe hanotria’ o rafelahi’ooy.
Trong cảnh bị vây hãm quẫn bách, có người phải ăn cả thịt con mình là con Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em, ban cho anh em.
54 Handofiry aman-drolongo’e naho ami’ty vali’e añ’ araña’e eo naho amo amory honka’eo ty fihaino’ ondaty tsotra naho mora-arofo ama’ areo ao,
Một người đàn ông dù mềm mỏng, tế nhị nhất cũng trở nên bủn xỉn, keo cú với anh em, vợ con còn sống sót.
55 amy ty fatiti’e tsy hanisa am’ iareo ty nofon’ ana’e ho kamae’e; ami’ty hapoi’e amy haemberañe hanotria’ o rafelahi’eo aze an-drova’o ao iabiy.
Trong cảnh bị vây hãm đói khổ, người ấy không muốn chia sẻ thức ăn mình có, đó là thịt của con mình.
56 Le ty rakemba maleme naho tretrañe ama’o ao i tsy mahavany handia tane an-delam-pandia’e ami’ty hatretra’e naho ami’ty fitrotrotrotroa’e ro hanao fihaino mena amy valin’ araña’ey naho ami’ty ana-dahi’e naho ami’ty anak’ampela’e,
Một người đàn bà dù mềm mỏng, tế nhị đến nỗi không dám giẫm chân lên đất, lúc ấy cũng phải từ chối, không chia thức ăn của mình cho chồng con,
57 naho ami’ty enta’e miboak’ añivom-pandia’eo, naho amo anake ho samahe’eo, amy t’ie ho kamae’e añ’etake ami’ty hapoi’e amy fiarikoboñañey naho amy fanjira’ i rafelahi’oiy, ie hembera’e amo fonga rova’oo.
giấu kín đứa con mới sinh và cái nhau để ăn một mình, vì quân thù vây thành quẫn bách quá.
58 Aa naho tsy hene ambena’o hanoeñe ze enta’ i Tsara sinokitse ami’ty boke toiy, hañeveña’o i tahinañe rengèñe naho mampañeveñey, Iehovà Andrianañahare’o;
Nếu anh em không tuân theo mọi luật lệ chép trong sách này, không kính sợ uy danh vinh quang của Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em,
59 le hafetsa’ Iehovà ama’o ty angorosy mahadaba, naho ty hatarareañe o tiri’oo, naho rare raty mitoboke ela, vaho ho tokoen-kasilofañe manaentaeñe nainai’e.
thì Chúa Hằng Hữu sẽ cho anh em và con cháu anh em gặp những tai họa, bệnh hoạn nặng nề và dai dẳng.
60 Mbore hampifetsahe’e ama’o ze fonga arete’ i Mitsraime nihembaña’oo, le hapiteke ama’o.
Ngài cũng để anh em mắc những bệnh người Ai Cập phải chịu trước kia, là những bệnh anh em rất sợ và không ai chạy chữa gì nổi.
61 Le hapo’ Iehovà ama’o ka ze arete aman’ angorosy tsy sinokitse ami’ty Boke Hake toy ampara’ te hikoromake.
Chúa Hằng Hữu còn bắt anh em mang mọi thứ bệnh không được ghi trong sách này, cho đến ngày anh em bị tiêu diệt.
62 Le hengañe tsy ampeampe irehe, ihe nifamorohotse mira amo vasian-dikerañeo taolo, amy te tsy nihaoñe’o ty fiarañanaña’ Iehovà Andrianañahare’o.
Dù anh em vốn đông như sao trời, chỉ một ít người còn sống sót, vì anh em không vâng lời Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của anh em.
63 Ie amy zay, hambañe ami’ty nirebeha’ Iehovà ama’o, hañasoa’e azo naho hampamorohota’e, ro hirebeha’ Iehovà ami’ty fandrotsaha’e, naho ty hampamongora’e azo, ie ho karaohe’e amy tane nandena’o nitavane’oy.
Chúa Hằng Hữu đã vui lòng làm cho anh em gia tăng dân số và thịnh vượng thế nào, lúc ấy Chúa Hằng Hữu cũng vui lòng tàn phá, tiêu diệt anh em thế ấy, và anh em sẽ bị trừ tiệt khỏi đất mình đang chiếm hữu.
64 Le hampiparaitahe’ Iehovà amo hene foko’ ty tane toio, boak’ añ’olo’e añe sikal’ añ’olots’ ila’e añe, le hitoron-drahare ankafaankafa añe ze mboe lia’e tsy nifohi’o ndra o rae’oo: hatae naho vato.
Chúa Hằng Hữu sẽ phân tán anh em khắp nơi trên mặt đất, cho sống với những dân tộc khác. Tại những nơi ấy, anh em sẽ thờ cúng các thần khác, những thần bằng gỗ, bằng đá trước kia anh em và các tổ tiên chưa hề biết.
65 Le tsy hierañerañe amy tane rezay irehe, naho tsy hahatrea fitofàñe ao ty lelam-pandia’o; f’ie ho tolora’ Iehovà arofo mihitikitike naho fihaino milesa vaho fivetsevetse mioremèñe.
Tại những nước ấy, anh em không được yên nghỉ, nhưng Chúa sẽ cho anh em trái tim run rẩy, đôi mắt mờ lòa, tinh thần suy nhược.
66 Hiradorado am-pimarimarihañe aolo’o eo ty fiai’o le hampirevendreveñe azo ty tariñ’ andro naho ty haleñe le ho po-kazavàñ’ arofo ty ami’ty fiai’o.
Mạng sống của anh em không được bảo toàn, đêm ngày phập phồng lo sợ.
67 Hanao ty hoe irehe te maraindray: Ee any t’ie nihariva, naho an-kariva, ty hoe, Ehe t’ie nimaraindraiñe! ty amy fihembañañ’ arofo’oy, amy inevenevera’oy, naho ty amo isahem-pihaino’o ho isa’oo.
Buổi sáng, anh em sẽ nói: ‘Ước gì đêm đến!’ Buổi tối lại nói: ‘Ước gì trời sáng!’ Vì lòng đầy lo sợ, vì những điều mắt mình chứng kiến.
68 Le hampolie’ Iehovà mb’e Mitsraime an-tsambo, amy lalañe nitaroñeko azoy te: Tsy handena’o ka! añe irehe ro handeta sandriñe an-drafelahi’o h’ondevo-lahy naho ondevo-ampela, fe tsy eo ty hikalo azo.
Rồi, Chúa Hằng Hữu sẽ chở anh em trở lại Ai Cập bằng tàu bè, một chuyến đi tôi đã bảo anh em chẳng bao giờ nên đi. Tại Ai Cập, anh em sẽ bán mình cho kẻ thù làm nô lệ, nhưng chẳng ai mua.”