< Ceturtā Mozus 21 >
1 Un tas Kanaānietis, Arada ķēniņš, kas dzīvoja pret dienvidiem, dzirdēja Israēli nākam pa izlūku ceļu, un kāvās pret Israēli un aizveda kādus no viņiem sagūstītus.
Khi vua A-rát, người Ca-na-an, ở nơi Nam phương, hay rằng Y-sơ-ra-ên theo đường do thám đi đến, bèn hãm đánh Y-sơ-ra-ên, và bắt mấy người cầm tù.
2 Tad Israēls Tam Kungam apsolīja solījumu sacīdams: ja Tu šos ļaudis dosi manā rokā, tad es viņu pilsētas izdeldēšu.
Y-sơ-ra-ên bèn hứa nguyện cùng Đức Giê-hô-va rằng: Nếu Chúa phó dân nầy vào tay tôi, tất tôi sẽ diệt các thành của nó.
3 Un Tas Kungs klausīja Israēla bērnu balsij un nodeva tos Kanaāniešus, un tie šos izdeldēja ar viņu pilsētām un nosauca tās vietas vārdu Horma (izdeldēšana).
Đức Giê-hô-va nhậm lời dân Y-sơ-ra-ên và phó dân Ca-na-an cho. Người ta diệt hết dân đó và các thành của nó, đặt tên chỗ nầy là Họt-ma.
4 Tad tie aizgāja no Hora kalna pa niedru jūras ceļu, ka ietu apkārt Edomiešu zemei.
Đoạn, dân Y-sơ-ra-ên đi từ núi Hô-rơ về hướng Biển đỏ, đặng đi vòng theo xứ Ê-đôm; giữa đường dân sự ngã lòng.
5 Un tiem ļaudīm apnika ceļā, un tie ļaudis runāja pret Dievu un pret Mozu: kāpēc jūs mūs esat izveduši no Ēģiptes zemes, ka tuksnesī mirstam? - Jo šeit nav ne maizes, ne ūdens, un mūsu dvēselei šī blēņu maize riebj.
Vậy, dân sự nói nghịch cùng Đức Chúa Trời và Môi-se mà rằng: Làm sao người khiến chúng tôi lên khỏi xứ Ê-díp-tô đặng chết trong đồng vắng? Vì đây không có bánh, cũng không có nước, và linh hồn chúng tôi đã ghê gớm thứ đồ ăn đạm bạc nầy.
6 Tad Tas Kungs sūtīja dedzīgas čūskas ļaužu starpā; tās tos koda un tur nomira daudz ļaužu no Israēla.
Đức Giê-hô-va sai con rắn lửa đến trong dân sự, cắn dân đó đến đỗi người Y-sơ-ra-ên chết rất nhiều.
7 Tad tie ļaudis nāca pie Mozus un sacīja: mēs esam grēkojuši, runādami pret To Kungu un pret tevi; lūdz To Kungu, lai Viņš atņem tās čūskas no mums. Tad Mozus lūdza par tiem ļaudīm.
Dân sự bèn đến cùng Môi-se mà nói rằng: Chúng tôi có phạm tội, vì đã nói nghịch Đức Giê-hô-va và người. Hãy cầu xin Đức Giê-hô-va để Ngài khiến rắn lìa xa chúng tôi. Môi-se cầu khẩn cho dân sự.
8 Un Tas Kungs sacīja uz Mozu: taisi sev vienu čūsku un uzcel to par zīmi, un notiks, ikviens, kas ir kosts un to uzlūkos, tas dzīvos.
Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy làm lấy một con rắn lửa, rồi treo nó trên một cây sào. Nếu ai bị cắn và nhìn nó, thì sẽ được sống.
9 Un Mozus taisīja vara čūsku un to uzcēla par zīmi, un notikās, ja čūska kādu bija kodusi, tad tas uzlūkoja to vara čūsku un palika dzīvs.
Vậy, Môi-se làm một con rắn bằng đồng, rồi treo lên một cây sào; nếu người nào đã bị rắn cắn mà nhìn con rắn bằng đồng, thì được sống.
10 Tad Israēla bērni aizgāja un apmetās Obotā.
Kế đó, dân Y-sơ-ra-ên đi và đóng trại tại Ô-bốt.
11 Pēc tie aizgāja no Obota un apmetās pie Abaru kalniem tuksnesī, kas ir pret Moabu, pret rītiem.
Đoạn, đi từ Ô-bốt và đóng trại tại Y-giê-A-ba-rim, tại đồng vắng, đối ngang Mô-áp về hướng mặt trời mọc.
12 No turienes tie aizgāja un apmetās pie Zaredas upes.
Họ đi từ đó đóng trại tại đèo Xê-rết.
13 No turienes tie aizgāja un apmetās šaipus Arnonas, kas ir tuksnesī un iztek no Amoriešu robežām; jo Arnona ir Moaba robeža, starp Moabu un Amoriešiem.
Rồi từ đó đi và đóng trại phía bên kia Aït-nôn, ở trong đồng vắng, vừa ra bờ cõi dân A-mô-rít; vì Aït-nôn là giáp-ranh của dân Mô-áp và dân A-mô-rít.
14 Tāpēc top sacīts Tā Kunga karu grāmatā: (tas Kungs karoja) pret Vahēbu viesulī un pret Arnonas upēm,
Bởi cớ đó, trong sách chiến trận của Đức Giê-hô-va có nói rằng: Va-hép ở tại Su-pha, và trũng Aït-nôn,
15 Un to strautu ieleju, kas griežas uz Ar pilsētu un iet gar Moaba robežām.
cùng những triền trũng chạy xuống phía A-rơ, và đụng ranh Mô-áp.
16 Un no turienes tie aizgāja uz Beēru. Šī ir tā aka, par ko Tas Kungs Mozum sacīja: sapulcini tos ļaudis, tad Es tiem došu ūdeni.
Từ đó dân Y-sơ-ra-ên đến Bê-re, ấy đó là cái giếng mà Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hãy nhóm hiệp dân sự, ta sẽ cho chúng nó nước.
17 Tad Israēls dziedāja šo dziesmu: Verdi, aka, uzdziediet viņai!
Y-sơ-ra-ên bèn hát bài nầy: Hỡi giếng, hãy tuôn lên! hãy ca hát cho nó!
18 Tu aka, ko virsnieki rakuši, ko ļaužu cienīgie izrakuši ar scepteri, ar saviem zižļiem. Pēc tie aizgāja no tuksneša uz Matanu.
Giếng mà các vua chúa đã khai, Các tước vị của dân sự đã đào Với phủ việt cùng cây gậy mình!
19 Un no Matanas uz Naāliēli, un no Naāliēles uz Bamotu,
Kế đó, từ đồng vắng dân Y-sơ-ra-ên đến Ma-tha-na; rồi từ Ma-tha-na đến Na-ha-li-ên; từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt;
20 Un no Bamotas uz to ieleju, kas ir Moaba laukā, pie tā augstā Pizgas kalna, kas stiepjas pret tuksnesi.
và từ Ba-mốt đến trũng ở trong bờ cõi Mô-áp, tại chót núi Phích-ga, là nơi người ta nhìn thấy đồng bằng của sa mạc.
21 Tad Israēls sūtīja vēstnešus pie Sihona, Amoriešu ķēniņa, un sacīja.
Vả, Y-sơ-ra-ên sai sứ giả đến Si-hôn, vua dân A-mô-rít, đặng nói rằng:
22 Ļauj man iet caur tavu zemi; mēs negriezīsimies druvās nedz vīna dārzos, mēs nedzersim ūdeni no akām; pa lielceļu iesim, tiekams būsim cauri izgājuši caur tavām robežām.
Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ vua, chúng tôi sẽ không xây vào đồng ruộng, hay là vào vườn nho, và chúng tôi cũng sẽ không uống nước các giếng, cứ đi đường cái của vua cho đến chừng nào qua khỏi bờ cõi vua.
23 Bet Sihons Israēlim neļāva iet caur savām robežām, un Sihons sapulcēja visus savus ļaudis un izgāja Israēlim pretī uz tuksnesi, un nāca uz Jācu un karoja pret Israēli.
Nhưng Si-hôn không cho phép Y-sơ-ra-ên đi ngang qua bờ cõi mình, bèn hiệp hết dân sự mình đi ra đón Y-sơ-ra-ên về hướng đồng vắng; người đến Gia-hát, chiến trận cùng Y-sơ-ra-ên.
24 Bet Israēls viņu apkāva ar zobena asmeni un uzņēma viņa zemi no Arnonas līdz Jabokai, līdz Amona bērniem; (jo Amona bērnu robežas bija stipras).
Song Y-sơ-ra-ên dùng lưỡi gươm đánh bại người, và chiếm xứ người từ Aït-nôn đến Gia-bốc, đến dân Am-môn; vì bờ cõi dân Am-môn bền vững.
25 Tā Israēls uzņēma visas šīs pilsētas, un Israēls dzīvoja visās Amoriešu pilsētās, Hešbonā un visos viņu ciemos.
Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành nầy, và ở trong các thành dân A-mô-rít, là ở tại Hết-bôn và trong các thành địa-hạt.
26 Jo Hešbona bija Sihona, Amoriešu ķēniņa, pilsēta, un šis bija karojis pret Moabiešu iepriekšējo ķēniņu un bija paņēmis visu viņa zemi no viņa rokām līdz Arnonai.
Vì Hết-bôn là thành của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, là vua đã giao chiến cùng vua trước của Mô-áp, chiếm lấy khắp hết xứ người đến Aït-nôn.
27 Tāpēc dziesminieki saka: nāciet Hešbonā, uztaisīt un apstiprināt Sihona pilsētu.
Bởi cớ đó, những nhà văn sĩ nói rằng: Hãy đến Hết-bôn! Thành Si-hôn phải xây cất và lập vững!
28 Jo uguns ir izgājis no Hešbonas un liesma no Sihona pilsētas; tā ir aprijusi Aru Moabā un Arnonas kalnu kungus.
Vì có một đám lửa bởi thành Hết-bôn, Một ngọn lửa bởi thành Si-hôn mà ra; Nó thiêu đốt A-rơ của Mô-áp, Các chúa của nơi cao Aït-nôn
29 Vai tev, Moab! Kamosa ļaudis, jūs ejat bojā! Viņa dēli spiesti bēgt un viņa meitas cietumā vestas no Sihona, Amoriešu ķēniņa.
Hỡi Mô-áp, khốn thay cho ngươi! Hỡi dân Kê-móc, ngươi đã diệt mất! Ngươi đã nộp con trai mình làm kẻ trốn tránh, Và con gái mình làm phu tù cho Si-hôn, vua A-mô-rít.
30 Un viņa spožums ir iznīcis no Hešbonas līdz Dibonai, mēs to esam izdeldējuši līdz Nofai, kas stiepjas līdz Medbai.
Chúng ta đã bắn tên nhằm chúng nó. Hết-bôn đã bị hủy diệt cho đến Đi-bôn. Chúng ta đã làm tàn hại đến Nô-phách, Lửa đã lan đến Mê-đê-ba.
31 Tā Israēls dzīvoja Amoriešu zemē.
Vậy, Y-sơ-ra-ên ở trong xứ dân A-mô-rít.
32 Un Mozus sūtīja izlūkot Jaēzeru, un tie uzvarēja viņas valstis un izdzina tos Amoriešus, kas tur bija.
Môi-se sai đi do thám Gia-ê-xe, chiếm các thành bổn hạt và đuổi dân A-mô-rít ở tại đó.
33 Un tie griezās un gāja uz augšu pa Basanas ceļu, un Ogs, Basanas ķēniņš, viņiem izgāja pretī, viņš un visi viņa ļaudis, kauties pie Edrejas.
Đoạn, dân Y-sơ-ra-ên trở lại đi lên về hướng Ba-san, Oùc, vua Ba-san, và cả dân sự người đi ra đón đặng chiến trận tại Eát-rê-i.
34 Tad Tas Kungs sacīja uz Mozu: nebīsties no viņa, jo viņu un visus viņa ļaudis un visu viņa zemi Es esmu devis tavā rokā, un tev būs tam darīt, itin kā tu esi darījis Sihonam, Amoriešu ķēniņam, kas dzīvoja Hešbonā.
Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Đừng sợ người, vì ta đã phó người, luôn dân sự và xứ người vào tay ngươi; ngươi khá làm cho người như đã làm cho Si-hôn, vua dân A-mô-rít ở tại Hết-bôn.
35 Un tie viņu apkāva un viņa dēlus un visus viņa ļaudis, tā ka neviens neatlikās, un uzņēma viņa zemi.
Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đánh bại Oùc, các con trai người và cả dân sự người, cho đến chừng không còn người nào ở lại; dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy xứ người vậy.