< Ruku 4 >

1 Jisasi'a Jodani timpi mono ti fretegeno, Ruotage Avamumo agu'afi efre viteno avareno ka'ma kopi vu'ne.
Đức Chúa Jêsus đầy dẫy Đức Thánh Linh, ở bờ sông Giô-đanh về, thì được Đức Thánh Linh đưa đến trong đồng vắng,
2 Hagi 40'a zageferupi Satana mago agi'a hankromofo kvamo, ne'za a'o huno mani'nea kna'afi Jisasina revatga hu'ne. Anama nehigeno Jisasi'a agaku hu'ne.
tại đó, Ngài bị ma quỉ cám dỗ trong bốn mươi ngày. Trong những ngày ấy, Ngài không ăn chi hết, k” đã mãn thì Ngài đói.
3 Sata'a amanage huno Jisasinkura hu'ne, Kagrama Anumzamofo mofavre mani'nesnunka ama havegura breti fore huo hunka hugeno breti fore hino.
Ma quỉ bèn nói với Ngài rằng: Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, thì hãy khiến đá nầy trở nên bánh đi.
4 Jisasi'a ana kemofo nona'a amanage hu'ne, Avontafepi anage huno krentene. Vahe'mo'za breti nesafintikera zmasimura e'origahaze huno krente'ne. (Diu-Kas 8:3)
Đức Chúa Jêsus đáp: Có chép rằng: Loài người được sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi.
5 Sata'a Jisasina avareno za'za agonare marerino, maka ama mopafima me'nea ranra kumatamina ame huno averi'ne.
Ma quỉ đem Ngài lên, cho xem mọi nước thế gian trong giây phút;
6 Ana huteno Sata'a amanage huno asami'ne, maka'zana nagrike kvafi me'neankina, ama ana makazana kamigahue. Na'ankure ama ana mikazana, izano aminaku'ma hanumofona amane amigahue.
và nói rằng: Ta sẽ cho ngươi hết thảy quyền phép và sự vinh hiển của các nước đó; vì đã giao cho ta hết, ta muốn cho ai tùy ý ta.
7 E'ina hu'negu kagrama krenarenka mono hunantesankena, ama ana maka'zana kaminugeno kagriza segahie huno higeno,
Vậy, nếu ngươi sấp mình xuống trước mặt ta, mọi sự đó sẽ thuộc về ngươi cả.
8 Jisasi'a ananke nona'a anage huno hu'ne, Avontafepina anage huno krente'ne, Kagra ranka'a Anumzamofo monora hunentenka, agri eri'zanke erigahane huno krente'ne. (Diu-Kas 6:13)
Đức Chúa Jêsus đáp: Có chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.
9 Anante Sata'a Jisasina avareno Jerusalemi kumate vuno, ra mono nomofo amumpare ome nenteno, amanage huno asami'ne, Kagra Anumzamofo mofavre mani'nenunka fenamufi takauro,
Ma quỉ cũng đem Ngài đến thành Giê-ru-sa-lem, để Ngài trên nóc đền thờ, mà nói rằng: Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy gieo mình xuống đi;
10 na'ankure avontafepina anage huno krente'ne, Anumzamo'a ankero vahe'a huzmantenke'za kva hugantesageno,
vì có chép rằng: Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ ngươi,
11 havemo'a kagia taga hu'zanku zamazampi kavresga hanageno, kagia taga osugahie huno krente'ne, (Sam-Zga 91:11-12)
Các đấng ấy sẽ nâng ngươi trong tay, Kẻo ngươi vấp chân nhằm đá nào chăng.
12 Jisasi'a ana kemofo nona'a anage huno asami'ne, Avontafepi anage huno krente'ne, Ranka'a Anumzamofona rehenka onko huno hu'ne. (Diu-Kas 6:16)
Đức Chúa Jêsus đáp: Có phán rằng: Ngươi đừng thử Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi.
13 Sata'ma mika revatga huvagareteno, henka'a kankamuma fore hanigeno revatga hanigu atreno vu'ne.
Ma quỉ dùng hết cách cám dỗ Ngài rồi, bèn tạm lìa Ngài.
14 Jisasi'a ete Galili mopare Avamumofo hihamufi vigeno, agenke'amo ana mopafina vuno eno hu'ne.
Đức Chúa Jêsus được quyền phép Đức Thánh Linh, trở về xứ Ga-li-lê, và danh tiếng Ngài đồn khắp các xứ chung quanh.
15 Ana nehuno Jisasi'a, agafa huno osi mono no zimifi mono kea nehige'za, agi erisga hu'naze.
Ngài dạy dỗ trong các nhà hội, ai nấy đều khen ngợi Ngài.
16 Hagi Jisasi'a nenama hu'nea kumate Nazarete eno, nehiaza huno mani fruhu knazupa (sabat) osi mono nompi marerino avontafe hamprinaku o'netige'za,
Đức Chúa Jêsus đến thành Na-xa-rét, là nơi dưỡng dục Ngài. Theo thói quen, nhằm ngày Sa-bát, Ngài vào nhà hội, đứng dậy và đọc.
17 Kasnampa ne' Aisaia avontafe regazarinte'naza eri'za eme nemizageno, eri vakanereno, hakreno amanage huno kre'nea ke hampri'ne,
Có người trao sách tiên tri Ê-sai cho Ngài, Ngài dở ra, gặp chỗ có chép rằng:
18 Ramofo avamumo Nagrane emani'ne. Na'ankure agra huhampri nanteno, zamunte omane vahepi Knare Musenkea huama huo huno hunante'ne. Agra hunanteno huama hugeno, kinafi mani'nesaza vahe'mo'za katufe'za nevnageno, zamu suhu vahe'mo'za negesageno, vahe'mo'za zamazeri haviza nehanaza nagamoza fru hu'za nemanisagena,
Thần của Chúa ngự trên ta: Vì Ngài đã xức dầu cho ta đặng truyền Tin Lành cho kẻ nghèo;
19 Ramo tamaza huno tamazeri so'ema hiazankura huama hu'na tmasaminaku e'noe. (Ais 61:1-2.)
Ngài đã sai ta để rao cho kẻ bị cầm được tha, Kẻ mù được sáng, Kẻ bị hà hiếp được tự do; Và để đồn ra năm lành của Chúa.
20 Anage huno hampriteno, ana avontafe regazarino, avontafemofo kva ne' nemino manige'za, ana osi mono nompi mani'namo'za zamua Agri kete'za mani'naze.
Đoạn, Ngài xếp sách, trả lại cho kẻ giúp việc, rồi ngồi xuống; mọi người trong nhà hội đều chăm chỉ ngó Ngài.
21 Ana huteno agafa huno zamasmi'ne, Amama hamprugetma antahiza kemofo avufa'a meni fore nehie.
Ngài bèn phán rằng: Hôm nay đã được ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà các ngươi mới vừa nghe đó.
22 Hagi maka vahe'mo'za knare kema hia kegura antri nehu'za, mago'ene ontahige antahige nehu'za, ama Josefe mofavre omaninefi? hu'za nehazageno,
Ai nấy đều làm chứng về Ngài, lấy làm lạ về các lời đầy ơn lành từ miệng Ngài ra, và nói rằng: Có phải con Giô-sép chăng?
23 Jisasi'a anage huno zamasami'ne, Tamage hutma huvame kea hunantegahaze. Tusa ne'moka kagra kavufa kazeri knare huo! Nehuno anage hu'ne, Kapeniamu kumate kaguvazama erifore hu'nanketa antahi'nonanki, e'i anazana kumaka'are huo hutma hugahaze.
Ngài phán rằng: Chắc các ngươi lấy lời tục ngữ nầy mà nói cùng ta rằng: Hỡi thầy thuốc, hãy tự chữa lấy mình; mọi điều chúng ta nghe ngươi đã làm tại Ca-bê-na-um, thì cũng hãy làm tại đây, là quê hương ngươi.
24 Tamage hu'na neramasamue. Magore huno kasnampa vahe'mofona kuma'afinti vahe'mo'za ke'a antahi omigahaze.
Ngài lại phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, không có một đấng tiên tri nào được trọng đãi trong quê hương mình.
25 Hianagi tamage hu'na neramasamue, Israeli vahepina rama'a kento'ane Elaija knafina mani'nageno, monafinti 3'a kafugi 6si'a ikana kora origeno, tusi agate'za maka mopafina fore hu'ne.
Ta nói thật cùng các ngươi, về đời Ê-li, khi trời đóng chặt trong ba năm sáu tháng, cả xứ bị đói kém, trong dân Y-sơ-ra-ên có nhiều đàn bà góa;
26 Ana hu'neanagi Elaijana huntegeno Israeli mani'naza kento a'nerera ovu'neanki, rurega kento ate huntegeno Sarefati kumate Saidoni mopare vu'ne. (Jem 5:17-18, 1 Kin 17:1-16.)
dầu vậy, Ê-li chẳng được sai đến cùng một người nào trong đám họ, nhưng được sai đến cùng một đàn bà góa ở Sa-rép-ta, xứ Si-đôn.
27 Hanki Israeli mopafina, rama'a fugo namuma zmare'nea vahera kasnampa ne' Elisa knafina mani'nazanagi, mago'mofone huno ana vahepina fugo namumo'a vagareonte'neanki, Siria ne' Nemaninke ana fugo namumo'a vagarentene. (2 Kin 5:1-14.)
Trong đời đấng tiên tri Ê-li-sê, dân Y-sơ-ra-ên cũng có nhiều kẻ mắc tật phung; song không có ai lành sạch được, chỉ Na-a-man, người xứ Sy-ri mà thôi.
28 Anage hige'za, osi mono nompi mani'naza maka vahe'mo'za nentahiza tusiza hu'za zamarimpa ahente'naze.
Ai nấy ở trong nhà hội nghe những điều đó, thì tức giận lắm.
29 Zamagra oti'za Jisasina rankumateti retufe'za, kuma zamimofo zava ankinareti aretufe atrenaku vu'naze.
Họ đứng dậy kéo Ngài ra ngoài thành, đưa Ngài lên đến chót núi, là nơi họ xây thành ở trên, để quăng Ngài xuống;
30 Hianagi Jisasi'a amu'no zimifinti nezamatreno vu'ne.
song Ngài qua giữa bọn họ và đi khỏi.
31 Ana huteno Kapaneamu rankumate Galili kaziga uramino umani'neno, mani fruhu knarera (sabat) mono kea rempi huzami'ne.
Ngài xuống thành Ca-bê-na-um, thuộc xứ Ga-li-lê, dạy dỗ trong ngày Sa- bát.
32 Zamagra rempima huzamia kegu zmagogogu hu'naze. Na'ankure hanave'a me'nea vahe'mo'ma nehiaza huno rempi huzamine.
Mọi người đều cảm động về sự dạy dỗ của Ngài; vì Ngài dùng quyền phép mà phán.
33 Hanki osi mono nompina agru osu havi avamumo agu'a fre'nea vahemo mani'neno, ranke huno kezati'ne.
Vả, trong nhà hội có một người bị tà ma ám, cất tiếng kêu lớn lên rằng: Hỡi Jêsus Na-xa-rét!
34 Ee! Tatregeta mani'maneno Nazareti Jisasiga, Kagra tazeri haviza hu'naku ne-eampi? Nagra antahi'noe, Kagra izage, Kagra Anumzamofona Ruotage hu'namoke!
Chúng tôi với Ngài có sự gì chăng? Ngài đến để diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai: là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời!
35 Hianagi Jisasi'a kesuno, Kea osu atrenka atiramio! Higeno havi avamumo'a ana nera amuno zimifi rutraka hunetreno, azeri haviza osu atiramino vu'ne.
Song Đức Chúa Jêsus quở nặng nó, mà rằng: Hãy nín đi, và ra khỏi người nầy. Quỉ bèn vật ngã người giữa đám đông, rồi ra khỏi không làm hại chi đến người.
36 Ana nehige'za mafka vahe'mo'za antri nehu'za zamagogogu nehu'za ke ohumi ahumi hu'za anage hu'naze. Nankna hihamu'ane ke ama ne'mo'a nehie? Na'ankure agi me'nea vahe'mo nehiaza huno tusi'a hihamu hanave'areti, agru osu havi avamura huntegeno ke'a antahino atineramie!
Mọi người đều sững sờ, nói cùng nhau rằng: Aáy là đạo gì đó? Người lấy phép và quyền đuổi tà ma, và chúng nó liền ra!
37 Ana higeno Jisasi agenke'amo'a ana mopa kagiafina vuno eno huvagare'ne.
Vậy danh tiếng Ngài đồn khắp các nơi xung quanh.
38 Jisasi'a ana osi mono nompinti atiramino Saimon nompi ufre'ne. Saimoni nenemo'a avufga teve ha kri erino mase'nege'za, aza haniegu Jisasina asami'naze.
Đức Chúa Jêsus ra khỏi nhà hội, vào nhà Si-môn. Bà gia Si-môn đang đau rét nặng lắm. Người ta xin Ngài chữa cho,
39 Jisasi'a ana a'te vuno, teveha kri huntegeno fanane higeno, ame huno ana a'mo'a otino ne'za kre'zmante'ne.
Ngài bèn nghiêng mình trên người, truyền cho cơn rét, rét liền lìa khỏi. Tức thì người chờ dậy hầu việc.
40 Zage uramino kinaga sege'za, ruzahu ruzahu kri eri'za mase'naza vahe'mokizmia, naga'zmimo'za zamavare'za Jisasinte e'naze. Ageno magoke magoke'mofona azanu zamako hutere huno zamazeri knamaregeno, ana krizmimo atre zamante'ne.
Khi mặt trời lặn rồi, ai nấy có người đau, bất k” bịnh gì, đều đem đến cùng Ngài; Ngài đặt tay lên từng người mà chữa cho họ.
41 Ana hukna huno rama'a vahepinti, havi avamutamina huzmantege'za atinerami'za ranke hu'za, Kagra Anumzamofo mofavre! Hu'neanagi Agra zamazeri korino, e'inage osiho huno hu'ne. Na'ankure Kraisi'e hu'za zamagra ko antahi'nazageno'e.
Cũng có các quỉ ra khỏi nhiều kẻ, mà kêu lên rằng: Ngài là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời! Nhưng Ngài quở nặng chúng nó, cấm không cho nói mình biết Ngài là Đấng Christ.
42 Jisasi'a maseno ko' atigeno ka'ma moparega vu'nege'za, vahe'mo'za hakre'za ome ke'za erifore nehu'za tagrane manigahananki, tatrenka ovuo hu'za kazigazi hu'za antahige'naze.
Vừa rạng ngày, Ngài ra đi đến nơi vắng vẻ, một đoàn dân đông kéo đi tìm Ngài. Họ theo kịp, giữ Ngài ở lại, không muốn để Ngài đi.
43 Hianagi Jisasi'a anage huno zamasami'ne, Nagra Anumzamofo kuma'mofo knare musenkea aruga'a kumapine huama hu'na vugahue. E'ina agafare Anumzamo'a hunantege'na ama mopafina e'noe.
Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Ta cũng phải rao Tin Lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến.
44 Anage nehuno mago'ene Judia osi mono nontamimpi vuno, vahera mono kea ome zmasamino vano hu'ne.
Vậy Ngài giảng dạy trong các nhà hội xứ Ga-li-lê.

< Ruku 4 >