< Ufihbyawa 3 >
1 Adumo imum buka nihenu, wuzan iriba irom anyimo Ugomo -Asere. in kuri in nyetike shi ti mummu azo uguna agi tigitak tini tizi ba, timummu tidake tikarti shi ire imum.
Thưa anh chị em, dù gặp hoàn cảnh nào, cứ hân hoan trong Chúa! Tôi không ngại nhắc đi nhắc lại, vì niềm vui giữ cho anh chị em an toàn.
2 Wuzani seke ini wooci, wuzani seke ina ana katuma ka buru, wuzani seke ina anu uwesi ajib.
Hãy đề phòng những lũ chó, những người hiểm độc! Họ buộc anh em làm lễ cắt bì giả tạo.
3 Abanna me, haru wani agbari me, barki haru wani titugonzono ahira a bibe bire-re ba Asere. haru wani anu tira ubigini anyimo a Yeso, ti kuri tizon duru anu tonno anyimo anipum.
Vì thờ phượng Đức Chúa Trời bởi Chúa Thánh Linh mới đúng ý nghĩa của thánh lễ cắt bì. Người theo Chúa hãnh diện nương cậy công việc cứu rỗi Chúa Cứu Thế Giê-xu đã hoàn thành và nhìn nhận con người không thể nào tự sức mình đạt đến sự cứu rỗi.
4 Sa azi anime, mi nicce num in turi anyimo anipum, inki uye ma bassa madi tonno barki nipum, mi in teki me.
Nếu người khác có thể tự hào về công đức riêng, thì tôi càng có quyền tự hào. Nếu con người có thể tự giải thoát nhờ công đức, lễ nghi khổ hạnh, thì tôi lại càng có đủ điều kiện hơn!
5 Agbarum roni unuye nu witi-utari, anu Israila, nan nikura ni biliyenu, llyahudawa wa yahudawa, abanga, tizen tini kobbo mi ufarisiyawa mani
Tôi chịu thánh lễ cắt bì khi mới sinh được tám ngày; tôi sinh trưởng trong một gia đình Ít-ra-ên chính gốc, thuộc đại tộc Bên-gia-min; tôi là người Hê-bơ-rơ thuần túy; giữ giáo luật rất nghiêm khắc vì tôi thuộc dòng Pha-ri-si;
6 Uwatu u inko iriba ma patti anu tarsa utize ta Asere, ahira atize tini kobbo, ma cukuno unu uzatu ujoro.
xét theo bầu nhiệt huyết, tôi đã bức hại Hội Thánh; xét theo tiêu chuẩn thánh thiện của luật pháp Môi-se, nếp sống của tôi hoàn toàn không ai chê trách được.
7 Abanna me vat timummu tigino me ta cukunom imum ure aje ahira am, ma ziki tini udira uni barki Ugomo-Asere.
Những ưu điểm ấy nay tôi coi là điều thất bại; vì tôi hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa Cứu Thế.
8 Ee, abini in bassa timummu tigino udira uni barki urusa be sa inzin ahira Ugomo-Asere Yeso Ugomo-Asere um, barki memani ma wuza udira vat tiron ronga, ma kurzo tini tizome ire imum barki in kem uribe ahira Ugomo-Asere.
Vâng, tất cả những điều ấy đều trở thành vô nghĩa nếu đem so sánh với điều quý báu tuyệt đối này: Biết Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế tôi. Tôi trút bỏ tất cả, kể như vô giá trị, cốt để được Chúa Cứu Thế,
9 Akem anyimo me, inzom in ure uhem unicce num ahira atize tini kobbo, anyo anime, inzin nuhem ahira uhem ukadura anyimo Ugomo-Asere, uhem usuro uhem ukadura
được liên hiệp với Ngài—không còn ỷ lại công đức, đạo hạnh của mình—nhưng tin cậy Chúa Cứu Thế để Ngài cứu rỗi tôi. Đức tin nơi Chúa Cứu Thế làm cho con người được tha tội và coi là công chính trước mặt Đức Chúa Trời.
10 Anyimo-Asere, uhem me sa uzi wa Asere usuro uhem ukadura.
Đó là phương pháp duy nhất để biết Chúa Cứu Thế, để kinh nghiệm quyền năng phục sinh của Ngài, để chia sẻ những nỗi khổ đau và chịu chết với Ngài.
11 Barki konde nyani in biki uhira anyimo a ma cau.
Như thế, tôi có thể đạt đến sự sống lại từ cõi chết!
12 Azo uguna mamu kem ti mum mu ti gino me tini, nyani ma mu cukuno unu udang. Abanna me in zin nu sonsi unicce utarsa barki in meki imum be sa mā mekum barki ini.
Không phải tôi đã đến mức toàn thiện hay đã đạt mục đích, nhưng tôi đang tiếp tục chạy đua để đoạt giải vì Chúa Cứu Thế đã đoạt được lòng tôi rồi.
13 Ni henu, daki magika ma mu meki ini ba. Abanna me imum inde irani sa in wuza: ma pake me ini mum sa irani adumo, In zinu sonsi unicce ahira imum be sa irani aje.
Tuy chưa đoạt giải, tôi vẫn đeo đuổi một mục đích cao cả duy nhất, xoay lưng với quá khứ, và nhanh chân tiến bước vào tương lai.
14 in zin nu inko iriba uhana urusa ugino me bati in kem ukalu ure uninonzo nu lita Asere amyimo Ugomo-Asere Yesu.
Tôi cố gắng chạy đến đích để giật giải, tức là sự sống thiên thượng. Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta hướng về trời qua con đường cứu chuộc của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
15 Vat uru ande sa tize amara, ti bassa abanga unaa ugino me, in ki ya bassan abanga a ire mum sas, abine ami Asere madi bezi shi ire mum sas.
Tất cả những người trưởng thành trong Chúa nên có tâm chí ấy. Nhưng nếu có ai chưa đồng ý, Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho họ.
16 Sen ke, ahira sa tamu harma, nati canti ani me.
Dù sao, chúng ta cứ tiến bước theo nguyên tắc đã tiếp thu.
17 Cukuno ni anu umanza imum be sa in wuza, ni henu. Ira ni memerum ahira anu agino me sa wa hakaa kasi haru me sa ta cukuno imum umansa ahira ashi me.
Thưa anh chị em, hãy theo gương tôi. Hãy lưu ý đến những người sống theo tiêu chuẩn ấy.
18 Anu gbardang wazin tanu - we wani anu gebe sa ma buki shi abanga awe me, aname in kuri in zin nu uboo shi in maje kasi ande sa nyari me u baka utiti Ugomo Asere me.
Dù đã nói nhiều lần, nay tôi lại khóc mà nhắc lại: Có nhiều người sống như kẻ thù của thập tự của Chúa Cứu Thế.
19 Umasirka uwe me iwono ini, Barki asere awe me aburu ani, utira igiri iweme uraa anyimo anu ehi muwe me, ubassa abanga awe me ura ti mummu tunee.
Chắc chắn họ sẽ bị hư vong, vì tôn thờ thần tư dục và lấy điều ô nhục làm vinh dự; tâm trí chỉ tập trung vào những việc trần tục.
20 Abanna me haru iwetere iru idi raa azesere ani, ahira me sa tizinu ube unu ubura uru, Ugomo Asere.
Nhưng chúng ta là công dân Nước Trời, sốt sắng mong đợi Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta từ trời trở lại.
21 Madi ganirka apum aru usizikime ma kurzon nini kasi nipum ugongo umeme, ugamirka in nikara nimeme ahira sa ma nya vat timummu atari ti meme.
Chúa sẽ biến hóa thân thể hư hoại của chúng ta ra giống như thân thể vinh quang của Ngài, bởi quyền năng thống trị vạn vật.