< Uluka 8 >
1 I'mA anime, Yeso nan nanu tarsa umeme u kirau nana ware, wa keti tipin tipin tigiro sas-san, wa zin nu kisa inteze turunta azesere Atigomo ta Asere,
Sau đó, Chúa Giê-xu đi khắp các thành phố, làng mạc, công bố Phúc Âm về Nước của Đức Chúa Trời. Mười hai sứ đồ cùng đi với Ngài.
2 a nee gbardan agebe sa Yeso mahumu zan a gbergene nan tikoni sas-sas, wahaki ni gome nan we. A nyimo awe Maryamu de sa agusan me Magadaliya, desa maāsuso a gbergene anyimo ame,
Nhiều phụ nữ từng được Chúa đuổi quỷ, chữa bệnh, cũng đi theo Ngài. Trong số đó có Ma-ri Ma-đơ-len, người được Chúa giải thoát khỏi bảy quỷ;
3 Yuwana, une ukuza, udura u Hiridus, nan Suzana, a ara nēgbardang. Usuro imum itari tuwe wa orwe ni
Gian-nơ, vợ Chu-xa, quản lý hoàng cung Hê-rốt; Su-danh, và nhiều bà khác nữa, đã dâng tiền ủng hộ Chúa Giê-xu và các môn đệ.
4 Uru wui a ori ni ori nanu gbardang, barki anu wa eze ususo ati pin pin gbardang barki wa iri Yeso. Mabu tize nan we tize anyimo atize.
Một đoàn dân đông từ nhiều thành phố kéo nhau đến tụ họp chung quanh Chúa Giê-xu. Ngài dạy họ ẩn dụ này:
5 “Uru una ti bira nadusa barki mabirai sana. Sama zin nu cofe sana, ire isa na irizi azesere una. Una wapata li ini inyin itngi ire iri.
“Một người ra đồng gieo lúa. Khi vãi hạt giống, có hạt rơi trên đường mòn, bị người ta dẫm lên, rồi chim ăn sạch.
6 Ire ikuri irizi azesere apo sarki nyan ga gbardang Sa ya suro itubi ti uza, ahira me ikuri iwa barki sa ahirame ada intame mazuzu ba
Có hạt rơi nhằm lớp đất mỏng phủ trên đá, cây mọc lên khô héo ngay, vì thiếu hơi ẩm.
7 isana ikuri irizi anyimo kana tikpe nan ni kana tisuri ni gome nan ni sana sa abira, ipatti we daya rusa ti uzaba.
Có hạt rơi vào giữa bụi gai, bị gai mọc lên chặn nghẹt.
8 isana irizi amanyan ga ma riri, i uza kan inya bisan gbardang, inya mareu kanu ukirau,” Sa Yesu mabuka abanga agino me, bama titiwe, “Uat unatatui tukuma, aca makun na,”
Nhưng hạt gieo vào đất tốt, lớn lên kết quả gấp trăm lần.” Khi nói những lời này, Chúa gọi lớn: “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe!”
9 Ba nu tarsa uYeso wa ikkime mabu ku we nyani bi nyo bibuka uginome.
Các môn đệ xin Chúa giải thích ý nghĩa ẩn dụ.
10 Magunwe, “Shiwani a nyashi irusi imum be sa izi nihunzi, iti gomo ta Asere. Ukasu anu inbowe tize anyimo atize, 'barki ko gussi wa ire wadda surame ba, ko gussi wa kunna wa dida rusameba.
Chúa đáp: “Đức Chúa Trời cho các con hiểu huyền nhiệm về Nước của Đức Chúa Trời. Nhưng Ta dùng ẩn dụ để dạy những người khác để ứng nghiệm lời Thánh Kinh đã chép: ‘Họ nhìn mà không thấy. Họ nghe mà không hiểu.’
11 biti ze toge biye. I sana me ine ini tizee ta Asere.
Đây là ý nghĩa của ẩn dụ: Hạt giống là Đạo Đức Chúa Trời.
12 sa yarizo Azesere una ine ini anu sa wa kunna tize ta Asere awe kuri inna dumo unu buru ma ē ma ziki tize me amu ruba muwe me, barki wa hem wa ke ubura.
Những hạt rơi trên đường mòn là Đạo gieo vào lòng người cứng cỏi, bị ma quỷ đến cướp đi, không cho họ tin nhận để được cứu.
13 saya rizi apo we wani anu me sa, wa zin nu kunna utize, wake wa kaba in na puru arum, wada zome in ti jiba: Wake wa nya uhem sisi uganiya cin, inki umansa wa kem we awa cikki una
Hạt giống rơi nơi lớp đất mỏng phủ trên đá tượng trưng cho người nghe Đạo liền vui lòng tiếp nhận, nhưng quá hời hợt, mầm sống không vào sâu trong lòng. Khi bị cám dỗ, họ liền bỏ Đạo.
14 saya rizo i kana, wewani anu mw sa ingi wa kun na tizeme, inki warwe aje innu vengi ze, waceki are a dodu ukem imumu uneē nan nu kunnaurunta u aki ni kara nuwe, icuno wadeke wada nyame ahana sa daki wa unaba.
Hạt giống rơi nhằm bụi gai là những người nghe Đạo nhưng mãi lo âu về đời này, ham mê phú quý và lạc thú trần gian, làm cho Đạo bị nghẹt ngòi, nên họ không thể giúp người khác tin nhận Phúc Âm.
15 sa yarizo amanyanga mahuma, ine ini anu me sawa kun na ti zeme wakabi tini innu hem inni ruba i inde, wa inta gan-ganWa tonzino ahira unyinza a hana.
Hạt giống gieo vào đất tốt là những người thành tâm vâng phục, nghe Đạo liền tin nhận và kiên tâm phổ biến cho nhiều người cùng tin.”
16 unu rusa u pitila, ma inpi in nun buru, nani wa inki adizi ukomi. Sen ke at ari uni ahira aticukumtu uni barki vat desa maribe ma iri mamsa ma uni.
“Không ai thắp đèn rồi đậy kín, nhưng đem đặt trên giá đèn để soi sáng mọi người trong nhà.
17 ige be sa izi nihinzi sa idida pokome ini ba, nani imumu ini hunzi sa adake adarusame iniba.
Chẳng có gì che kín mãi, tất cả các điều bí mật sẽ bị phơi bày trước ánh sáng.
18 nii sēke innu kuna, barki vat u ni mum, me mani adi kinki meni, vat u nu zatti immu, acin sama basa-ma zini adi ziki.”
Vậy hãy thận trọng về cách các con nghe, vì ai có sẽ được cho thêm, còn ai không có, dù tưởng mình có gì cũng bị mất luôn.”
19 ino Yeso nan na nu ameme, wa ē ahira ame, daki wa rusa u hana mamma mu nan me ba barki nigura nanu.
Mẹ và các em của Chúa Giê-xu đến tìm Ngài, nhưng đông người quá, không đến gần Ngài được.
20 mabukine, “Aino uwe maye nan na nu'henu uweme, waturi amatara, wa nyara u'ira uwe.”
Có người thưa với Chúa: “Mẹ và các em Thầy đang chờ bên ngoài, muốn gặp Thầy.”
21 Yeso makabirka we, “A ino um nan 'anu' henu un wewani ande sa wa kunna tize ta Asere, watarsa tini.”
Chúa Giê-xu đáp: “Mẹ và em Ta là những người nghe và làm theo lời Đức Chúa Trời.”
22 wui Yeso ma ribe anyimo u zirgi umei, nan nanu tarsa umeme. Magun we, “In nyara tiha ani winme.” Ba wa tubi tanu uka kafa ani winme.
Một hôm, Chúa Giê-xu bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy qua bên kia bờ hồ.” Vậy, họ bước vào thuyền và chèo đi.
23 wahaka Yeso matubi muro, ba urru pebu uni kara uhiri anyimo ani win me, ahirame uzirgime, utubi umyi nca un mei, we anyimo. ama aye.
Khi thuyền đang chạy, Chúa Giê-xu nằm ngủ. Thình lình, một cơn bão nổi lên, nước tràn vào thuyền thật nguy ngập.
24 anu tarsa u Yeso wa ē watubi amoro me. Wa gun me, Una akura! Una kura! Tidi wi!” Bama hiri mabuki upebu me, Ba upebu iran za u gamara u mei waton no dang.
Các môn đệ đến đánh thức Ngài dậy, hớt hải thưa: “Thầy ơi, chúng ta chết mất!” Chúa Giê-xu thức dậy quở sóng gió. Sóng gió liền ngưng; biển lặng yên.
25 bama gunwe, “Uhem ushime uraā?” Anu tarsa wne wa kunna bi yau. Wameki ubasa abanga inni mum be saya kem ahirame. Wagunna acece, “Aveni ugume samadake ma gbarikka upebu nan mei watar si Imumbe sama buka.”
Chúa hỏi các môn đệ: “Đức tin các con ở đâu?” Mọi người đều kinh ngạc, sợ hãi bảo nhau: “Người là ai, mà có quyền lực bảo sóng gió phải vâng lời Người!”
26 e uwatu uma Garasinawa, sawa zi mamu nan nu Galili.
Thuyền cập bến vùng Ga-đa-ren, phía Đông biển Ga-li-lê.
27 Yesomatuno adizi, bā urrunu u watu ugino me makabi me. Unu ugino me mazin inna gbergene. Unume ma dodon kino mada son sime turunga ba, mada kuri ma cukuzu no akura ba. muni macukuzuno ni.
Chúa vừa lên bờ, một người bị quỷ ám trong thành đến gặp Ngài. Từ lâu, anh sống lang thang ngoài nghĩa địa, không nhà cửa, không quần áo.
28 maā ira Yeso, unume mawu uhu nu in ni kara. Matunguno aji ame inni myiram ni dang magu, Nyani in di wuzinn hu, Yeso, vana Asere unu bari? izinu iggizo uwe, katti u wum izitto!”
Vừa thấy Chúa và nghe Ngài ra lệnh đuổi quỷ, anh hét lớn, quỳ xuống trước mặt Ngài, kêu la: “Giê-xu, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, Ngài định làm gì tôi? Tôi van Ngài đừng hành hạ tôi!”
29 Barki Yeso mabuki a gbergene me wa su ri anyimo ame, barki a agbargeneme wa ma atira ini inni nyan a korsome, make matazi ini ibe zezen ike i gidi me anyimo anija.
Trước kia quỷ thường điều khiển anh, dù anh bị còng tay xiềng chân, quỷ cũng xúi anh bẻ còng bứt xiềng, chạy vào hoang mạc.
30 ma ikki me, “Anee ni ni zanuwe me?” Bama kabirka, “Niza'numu gben-gben ini.” maguane ani barki agbergene wa ribe unu ge me.
Chúa Giê-xu hỏi: “Mầy tên gì?” Đáp: “Quân Đoàn”—vì có rất nhiều quỷ ở trong người ấy.
31 wa meki u iggizo u Yeso ka ki ma gun we wa ribe anyimo aniwa ni com com (Abyssos )
Bọn quỷ năn nỉ Chúa đừng đuổi chúng xuống vực sâu. (Abyssos )
32 nima ladu na rani wazin nu ka se a zesere apana mamu nan na hirame. Agbergene me wa ikki Yeso ma cekku we wa ribe anyimo amaladu me ma hem in we.
Trên sườn núi có bầy heo đông đang ăn, bọn quỷ xin Chúa cho chúng nhập vào bầy heo. Vậy Chúa Giê-xu cho phép.
33 me wa cikki unume waaribe anyimo ama ladu me, Bani goo ni ma ladu me tu uhana ani win, wapira.
Chúng liền ra khỏi người bị ám, nhập vào bầy heo. Bầy heo đua nhau lao đầu qua bờ đá rơi xuống biển, chết chìm tất cả.
34 sa anu tarsan maladu me wa iri imumbe Saya kem, bawa sumi! Waka nya tize timumbe saya kem a hiraa nu anyimo ani pin nan na gi ro agino me.
Bọn chăn heo liền chạy vào thành phố và thôn xóm gần đó báo tin.
35 ani me, anu sa sa wakunna anime wa dusa barkiwaka ira imumbe saya ken, wa e ahirame sa Yeso marani wa iri unu be sa agbergene wa suro a me. Wa iri ma soki turunga, mara anyimo urusa imum ime ba biyau bime kki we.
Dân chúng đổ ra xem. Họ đến gần Chúa, thấy người vốn bị quỷ ám, áo quần tươm tất, trí óc tỉnh táo, đang ngồi dưới chân Chúa Giê-xu, thì khiếp sợ.
36 sawa ira imunbe sa yakem, iNabuki yae uhuma me sa ahuman nu nu sa agbergene wazin nu barinme.
Những người chứng kiến việc đuổi quỷ thuật lại mọi chi tiết.
37 be sawara anyimo uwatu umgarasinawa nan desa wara a mo tikikira, wa ikki Yeso ma suri anyi mo u watu uni pin nuwe barki wa kunna biyau kan. Abine Yeso nan a nu tarsa ume waribe anyimo uzirgi umei wa kuri.
Quá kinh hãi, tất cả dân chúng vùng Ga-đa-ren xin Chúa Giê-xu đi nơi khác. Vậy, Chúa Giê-xu xuống thuyền trở qua bờ bên kia.
38 sa agbergene wa suri anyimo ame, ma ikki Yeso uguna, “Cekkum in dusa nigome nan hu! Yeso ma ceki me agi,
Người vốn bị quỷ ám xin đi theo. Nhưng Chúa Giê-xu không cho, Ngài bảo:
39 akura ubuki imum idandang ige be sa Asere awuzawe.” Abinime ba unume madusa in nu bo anu ani pin me vat usuro imumbe sa Yeso mawu za me ini.
“Hãy về nhà, thuật lại những việc lạ lùng Đức Chúa Trời đã làm cho con.” Người ấy đi khắp thành phố công bố việc lớn lao Chúa Giê-xu đã làm cho mình.
40 Yeso ma zee, anu wawume mahabi we vat wa be me.
Trở lại bờ bên kia, Chúa Giê-xu được dân chúng đón tiếp, vì họ chờ đợi Ngài.
41 kem uye ma yen ne unani za yayirus, uye anyimo ana je udunge uni nan zo ma e mamu nan Yeso matunguno in ni ce nume adizi. Ma ikkime barki ma e akura ameme.
Giai-ru, viên quản lý hội đường đến quỳ dưới chân Chúa Giê-xu, khẩn khoản mời Ngài về nhà,
42 sa uce ume samazin tiwe u turwai in tire maraa anyo iwono, me mani cas ucame sa hira. Anime sama haka, nigo nanu gbardang in nu patti ume.
vì đứa con gái duy nhất của ông lên mười hai tuổi đang hấp hối. Khi đi đường, dân chúng chen lấn chung quanh Chúa.
43 nee marani samaye ma kpa ngizo me uzika utiwe uturuwai in tire. Mahuna ikirfi ume vat a hira abere, barki wahuman me anime dakki akem desa ma rusa u human me.
Trong đám đông có một phụ nữ bị bệnh rong huyết mười hai năm, đã chạy chữa nhiều thầy lắm thuốc, nhưng không lành.
44 amaru a Yeso madari u dibi me. Ahirame u lpongizo umaye me u tonno.
Bà đến sau lưng Chúa, sờ trôn áo Ngài, lập tức huyết cầm lại.
45 Yeso magu, “Aveeni manyam?” Ande sa wa kate me, ko vi magu dama darame ba, Bitrus magu, “Ande sa wa kate me, ko vi magu, “Unaje anu gben wa zin nu orrizino ana me in nu eze mammamu nan hu.”
Chúa Giê-xu hỏi: “Ai sờ đến Ta vậy?” Không thấy ai nhận, Phi-e-rơ lên tiếng: “Thưa Thầy, biết bao nhiêu người đang chen lấn quanh Thầy mà!”
46 Yeso magu “In rusa uye ma daram, barki ubari wa suro a hira am.
Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Có người vừa sờ áo Ta, vì Ta biết có quyền lực trong Ta phát ra.”
47 Sa unee marusa madake mada gunne ba, ba ma e ahira ame a nyimo abiyau. Matunguna madarame sisi ahira ma huma.
Biết không thể giấu được nữa, người phụ nữ run rẩy đến quỳ trước mặt Chúa, thưa thật giữa công chúng tại sao mình đã sờ áo Chúa và lập tức được lành.
48 Bama gun me, “Uca, uhem uwe uhuman hu. Dusa in ni ruba uranta.
Chúa phán: “Con ơi, đức tin con đã chữa cho con lành. Hãy về nhà bình an!”
49 Mara anyimo uboo tize, Uye anyimo akura una je anbu ma e, magu, “Uca uweme mamu wono, cekkime uca uwe mamu wono.”.
Khi Chúa còn đang nói, người nhà Giai-ru đến báo tin: “Con gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa!”
50 Sa Yeso makum na anime bamagu nme, “Kati ukukanna biyau. Nya kadure uca uwe madi huma.”
Nghe tin ấy, Chúa Giê-xu bảo Giai-ru: “Đừng sợ, cứ vững lòng tin, con ông sẽ được lành.”
51 Sa ma aye akurame, da ma ceki u ye maribe akuame nigome nan me ba sinke Bitrus nan Yahana nan Yakubu aino uca me nan ka coo me.
Đến nhà, Chúa Giê-xu không cho ai vào, ngoài Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng, và cha mẹ cô bé.
52 Vatta anu ahirame, intiso inni kara barki wa zin ma eye ma came ma wono. Yeso magun we. “Cekini aso! Dakki ma wono ba! Mazin moroma ni!
Cả nhà đang than khóc kêu la, nhưng Chúa phán: “Đừng khóc nữa! Em bé chỉ ngủ chứ không chết đâu!”
53 Anu wa wuzime ti zunza tibi i zu, barki sa wa rusa ucama wono.
Nhưng đám đông quay lại chế nhạo Ngài, vì biết cô bé đã chết rồi.
54 Ma meki tari tume matitit uguna, “Uca, magu na uhiri.”
Chúa nắm tay cô bé, gọi: “Dậy đi, con!”
55 Ahira-hirame bibe bumee bize ani pun numeme mahiri. magun wa nyame i mare mari.
Cô bé sống lại, liền đứng dậy. Chúa Giê-xu bảo cho nó ăn.
56 A nka coome imum ibiyau ime kuwe anime Yeso mabeki anka coome katti wabeki uye imum be saya kem ba.
Cha mẹ cô bé quá ngạc nhiên, nhưng Chúa dặn đừng nói cho ai biết.