< Sòm 68 >
1 Pou direktè koral la; avèk enstriman ak kòd yo. Yon Sòm; Yon Chan Kite Bondye leve! Kite lènmi Li yo vin gaye! Kite (sila) ki rayi Li yo sove ale devan L.
Nguyện Đức Chúa Trời chỗi dậy, khiến thù nghịch Ngài tản lạc, Và làm cho những kẻ ghét Ngài phải trốn trước mặt Ngài.
2 Kon lafimen konn chase, konsa, chase yo. Kon lasi kon fonn devan dife, konsa, kite mechan yo peri devan Bondye.
Như khói tỏa thể nào, Chúa sẽ làm tan chúng nó thể ấy; Như sáp tan chảy trước lửa làm sao, Những kẻ ác sẽ bị diệt trước mặt Đức Chúa Trời làm vậy.
3 Men kite moun ladwati yo fè kè kontan. Kite yo leve wo devan Bondye. Wi, kite yo rejwi avèk kè kontan.
Nhưng người công bình sẽ vui vẻ, hớn hở trước mặt Đức Chúa Trời; Phải, họ sẽ nức lòng mừng rỡ.
4 Chante a Bondye! Chante lwanj a non Li! Leve wo pou (Sila) ki monte sou nwaj yo: non l se SENYÈ a! Rejwi devan Li an!
Hãy hát xướng cho Đức Chúa Trời, hãy ngợi khen danh Ngài; Khá đắp đường cái cho Đấng cỡi ngựa đi ngang qua đồng bằng: Đức Giê-hô-va là danh Ngài; hãy vui mừng trước mặt Ngài.
5 Yon papa pou òfelen yo e yon jij pou vèv yo, se Bondye nan lye sen Li an.
Đức Chúa Trời ở nơi thánh Ngài, Là Cha kẻ mồ côi, và quan xét của người góa bụa.
6 Bondye fè yon fanmi pou (sila) ki pa genyen an. Li fè prizonye yo vin sòti deyò ak chan yo, men rebèl yo viv nan yon peyi deseche.
Đức Chúa Trời làm cho kẻ cô độc có nhà ở, Đem kẻ bị tù ra hưởng được may mắn; Song những kẻ phản nghịch phải ở đất khô khan.
7 O Bondye, lè Ou te sòti devan pèp Ou a, lè Ou te mache travèse dezè a,
Hỡi Đức Chúa Trời, khi Chúa đi ra trước dân Chúa, Và đi tới trong đồng vắng,
8 tè a te souke. Syèl yo tou te lage lapli devan prezans Bondye, prezans Bondye Sinaï lan. Mond la li menm tè a souke devan prezans Bondye a, Bondye Israël la.
Thì đất rúng động, các từng trời đặt ra nước trước mặt Đức Chúa Trời; Núi Si-nai kìa cũng rúng động trước mặt Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
9 Ou, Bondye te voye nan tout kote yon gwo lapli. Ou te konfime eritaj Ou lè li te fatige nèt.
Đức Chúa Trời ơn, Chúa giáng mưa lớn trên sản nghiệp Chúa, Khi nó mệt mỏi Chúa bổ nó lại.
10 Moun pa Ou yo te vin rete ladann. Ou te founi tout bonte Ou pou malere yo, O Bondye.
Hỡi Đức Chúa Trời, hội Chúa ở tại đó; Vì lòng nhân từ, Chúa sắm sửa vật tốt cho kẻ khốn cùng.
11 Senyè a te anonce pawòl la. Mesaje ki pwoklame bòn nouvèl yo se yon gwo lame.
Chúa truyền mạng lịnh ra: Các người đàn bà báo tin thật một đoàn đông lắm.
12 “Wa lame yo sove ale! Yo kouri! Fanm nan rete nan kay la divize piyaj la!
Các vua có đạo binh chạy trốn, họ chạy trốn; Còn người đàn bà ở lại trong nhà chia của cướp.
13 Lè ou kouche nan pak mouton yo, se tankou zèl toutrèl ki kouvri ak ajan e plim li ak lò briyan.
Khi các ngươi nằm nghỉ ở giữa chuồng chiên, Thì giống như cánh bò câu bọc bạc, Và lông nó bọc vàng xanh.
14 Lè Toupwisan an te gaye wa yo la a, Nèj t ap tonbe sou Tsalmon.
Khi Đấng toàn năng tản lạc các vua tại đó, Thì xứ trở nên trắng như lúc mưa thuyết tại Sanh-môn.
15 Yon mòn Bondye se Mòn Basan. Yon mòn apik e difisil se Mòn Basan.
Núi Ba-san là núi của Đức Chúa Trời; Núi Ba-san có nhiều chót.
16 Poukisa nou gade ak anvi, O tout lòt mòn yo? Sou mòn ke Bondye te apwente konn abitasyon Li an? Anverite, SENYÈ a va abite la pou tout tan.
Hỡi các núi có nhiều chót, sao các ngươi ngó cách ganh ghét Núi mà Đức Chúa Trời đã chọn làm nơi ở của Ngài? Phải Đức Giê-hô-va sẽ ở tại đó đến đời đời.
17 Cha Bondye yo anpil sou milye dè milye. Senyè a pami yo sòti Sinaï, nan sentete Li.
Xe của Đức Chúa Trời số là hai vạn, Từng ngàn trên từng ngàn; Chúa ở giữa các xe ấy y như tại Si-nai trong nơi thánh.
18 Ou te monte an wo. Ou te mennen kaptif yo sòti. Anplis, Ou te resevwa kado pami lòm, menm pami rebèl yo tou, pou SENYÈ a, Bondye a, kapab abite la.
Chúa đã ngự lên trên cao, dẫu theo những phu tù; Chúa đã nhận lễ vật giữa loài người, và giữa kẻ phản nghịch cũng vậy, Hầu cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời được ở với chúng nó.
19 Beni se Senyè a, ki pote fado nou chak jou, Bondye ki se delivrans nou an. Tan
Đáng ngợi khen Chúa thay, Là Đấng hằng ngày gánh gánh nặng của chúng tôi, Tức là Đức Chúa Trời, sự cứu rỗi của chúng tôi.
20 Bondye pou nou se yon Bondye delivrans. Epi BONDYE, Senyè a sèl, ki fè nou chape devan lanmò.
Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời giải cứu chúng tôi; Aáy là nhờ Chúa Giê-hô-va mà loài người được tránh khỏi sự chết.
21 Anverite, Bondye va kraze tèt lènmi Li yo, tèt la menm ak cheve a (sila) ki pèsiste nan mechanste li yo.
Nhưng Đức Chúa Trời sẽ đạp nát đầu kẻ thù nghịch Ngài, Đỉnh tóc của kẻ cứ phạm sự gian ác.
22 Senyè a te di: “Mwen va mennen fè yo sòti Basan. Mwen va mennen yo retounen jis rive nan fon lanmè a,
Chúa đã phán rằng: Từ Ba-san ta sẽ dẫn dân ta về, Đem chúng nó lên khỏi biển sâu;
23 pou pye ou kapab kraze yo bay san, jis lang chen ou yo kapab jwenn pòsyon pa yo sou lènmi a.”
Để ngươi dầm chân mình trong huyết, Và lưỡi chó ngươi cũng được phần trong kẻ thù nghịch ngươi.
24 Yo te wè pwosesyon solanèl Ou a, O Bondye, pwosesyon a Bondye mwen an, Wa mwen, pou antre nan sanktiyè a.
Hỡi Đức Chúa Trời, chúng nó đã thấy cách Chúa đi, Tức cách Đức Chúa Trời, là Vua tôi, đi vào nơi thánh.
25 Chantè yo te ale, e mizisyen yo te swiv, nan mitan a jenn fi ki t ap bat tanbouren yo.
Các người hát xướng đi trước, kẻ đàn nhạc theo sau, ỳ giữa có những con gái trẻ đánh trống cơm.
26 Beni Bondye nan asanble yo, SENYÈ a menm, fontèn dlo Israël la.
Hỡi những kẻ nguyên do nơi Y-sơ-ra-ên mà ra, trong các hội Hãy chúc tụng Đức Chúa Trời, là Chúa.
27 Men gade Benjamin, pi piti an Israël la, k ap renye sou yo, prens a Juda ki konseyè yo, prens Zabulon ak prens a Nephthali yo.
Kìa, Bê-gia-min nhỏ, là kẻ cai trị chúng nó; Các quan trưởng Giu-đa, và bọn của họ; Các quan trưởng Sa-bu-lôn, và các quan trưởng Nép-ta-li.
28 Bondye ou a te kòmande fòs Ou. Montre Ou dyanm, O Bondye, nan sa Ou te fè pou nou menm.
Đức Chúa Trời ngươi đã ban sức lực cho ngươi: Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy khiến vững bền việc Chúa đã làm cho chúng tôi.
29 Akoz tanp Jérusalem Ou a, wa yo va mennen kado bay Ou.
Bởi cớ đền thờ của Chúa tại Giê-ru-sa-lem, Các vua sẽ đem dâng lễ vật cho Chúa.
30 Repwoche bèt sovaj yo nan mitan wozo a, twoupo towo yo avèk ti bèf a pèp yo. Foule anba pye gwo bout pyès ajan yo. Gaye pèp ki te renmen fè lagè yo.
Xin hãy mắng thú trong lau sậy, Quở đoàn bò đực với những bò con của các dân, Là những người đem nén bạc quì xuống dâng cho, Xin Chúa hãy tản lạc những dân tộc ưa thích sự giặc giã.
31 Prens yo va sòti an Égypte. Ethiopie va fè vit pou lonje men l vè Bondye.
Những công-hầu sẽ từ Ê-díp-tô mà ra; Ê-thi-ô-bi sẽ lật đật giơ tay lên cùng Đức Chúa Trời.
32 Chante a Bondye, O wayòm sou latè yo, Chante lwanj a Senyè a, Tan
Hỡi các nước của đất, hãy hát xướng cho Đức Chúa Trời; Khá hát ngợi khen Chúa,
33 A (Sila) ki vwayaje monte sou pi wo syèl la, ki la depi nan tan ansyen yo. Gade byen, Li pale ak gwo vwa, yon vwa plen pwisans.
Tức là Đấng cỡi trên các từng trời thái cổ; Kìa, Ngài phát tiếng ra, là tiếng có sức lớn.
34 Rekonèt fòs Bondye a! Majeste Li sou tout Israël, pwisans Li nan syèl yo.
Hãy tôn quyền năng cho Đức Chúa Trời: Sự oai nghiêm Ngài ở trên Y-sơ-ra-ên, và quyền năng Ngài ở trong các mây.
35 O Bondye, Ou etonnan nan sanktiyè Ou yo. Bondye Israël la ki bay fòs ak pouvwa a pèp Li yo. Beni se Bondye!
Hỡi Đức Chúa Trời, Chúa thật đáng sợ trong nơi thánh Chúa: Chính Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban sức lực và quyền năng cho dân sự Ngài. Đáng ngợi khen Đức Chúa Trời thay!