< Jeremia 51 >

1 Jehova ekuuga ũũ: “Atĩrĩrĩ, nĩngarahũra roho wa mũniinani, ũũkĩrĩre Babuloni, o na andũ a Lebi-Kamai.
Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán: “Này, Ta sẽ giục lòng kẻ hủy diệt tiến đánh Ba-by-lôn và cả xứ người Canh-đê, để tiêu diệt nó.
2 Nĩngatũma andũ a kũngĩ mathiĩ Babuloni magakũhurunje ta ũrĩa mũũngũ ũmbũragwo ihuhĩro-inĩ, na manange bũrũri ũcio ũtigwo ũtarĩ kĩndũ; makaũũkĩrĩra kuuma mĩena yothe, mũthenya ũcio waguo wa mwanangĩko.
Dân ngoại quốc sẽ đến và sàng sảy nó, thổi sạch nó như rơm rạ. Trong ngày nó gặp hoạn nạn, quân thù từ khắp nơi kéo đến vây đánh nó.
3 Mũtikanareke mũikia wa mĩguĩ ageete ũta wake, kana ehumbe nguo ciake cia ita. Mũtigacaĩre aanake akuo; anangai mbũtũ ciake cia ita, mũciniine.
Đừng để các xạ thủ kịp mặt áo giáp hay kéo cung tên. Đừng tha ai hết, cả những chiến sĩ giỏi! Hãy để toàn quân của nó bị tuyệt diệt.
4 Makaagũa thĩ moragĩtwo kũu Babuloni, magurarĩtio nguraro cia gĩkuũ kũu barabara-inĩ ciakuo.
Chúng sẽ ngã chết la liệt trên đất Ba-by-lôn bị đâm chết giữa các đường phố.
5 Nĩgũkorwo Isiraeli na Juda matitirikĩtwo nĩ Ngai wao, o we Jehova Mwene-Hinya-Wothe, o na gũtuĩka bũrũri wao ũiyũrĩtwo nĩ mahĩtia maitho-inĩ ma ũcio Mũtheru wa Isiraeli.
Vì Chúa Hằng Hữu Vạn Quân không lìa bỏ Ít-ra-ên và Giu-đa. Ngài vẫn là Đức Chúa Trời của họ, dù đất nước họ đầy tội lỗi nghịch với Đấng Thánh của Ít-ra-ên.”
6 “Mwĩtharei muume kũu Babuloni! Ũrai mũhonokie mĩoyo yanyu! Mwĩtharei mũtikaniinanĩrio nakuo nĩ ũndũ wa mehia makuo. Nĩ ihinda rĩa Jehova rĩa kwĩrĩhĩria; agaakũrĩha o kĩrĩa gĩkwagĩrĩire.
Hãy trốn khỏi Ba-by-lôn! Hãy chạy cho toàn mạng! Đừng vì tội lỗi nó mà chịu chết lây! Vì đây là thời kỳ báo ứng của Chúa; Ngài sẽ hình phạt xứng đáng.
7 Babuloni kwahaanaga ta gĩkombe gĩa thahabu kĩrĩ guoko-inĩ kwa Jehova; nakuo gũgĩtũma thĩ yothe ĩhaane ta ĩrĩĩtwo nĩ njoohi. Ndũrĩrĩ nĩcianyuire ndibei yakuo; nĩ ũndũ ũcio rĩu ihaana ta igũrũkĩte.
Ba-by-lôn vốn là một cái chén vàng trong tay Chúa Hằng Hữu, chén được làm để cho cả thế giới uống. Các dân tộc đã uống rượu của Ba-by-lôn, và khiến họ say điên cuồng.
8 Babuloni nĩgũkũgũa o rĩmwe na kũhehenjwo. Kũrĩrĩrei! Rehei ndawa ya kũniina ruo rwakuo; hihi kwahota kũhona.
Nhưng Ba-by-lôn sẽ thình lình sụp đổ. Hãy khóc than nó. Cho nó thuốc men. May ra nó có thể được chữa lành.
9 “‘Nĩtũngĩahonirie Babuloni, no rĩrĩ, gũtingĩhonio. Nĩtũgũtigei, na o mũndũ acooke bũrũri wake kĩũmbe, nĩgũkorwo ituĩro rĩakuo rĩkinyĩte o matu-inĩ, rĩambatĩte o nginya matu-inĩ marĩa mairũ.’
Nếu có thể, chúng ta cũng cứu giúp nó, nhưng bây giờ không có gì có thể cứu nó. Hãy để nó đi; hãy lìa bỏ nó. Mỗi người chúng ta hãy quay về quê hương xứ sở. Vì sự đoán phạt nó lên đến tận trời; cao đến nỗi không thể đo lường được.
10 “‘Jehova nĩonanĩtie ũthingu witũ; ũkai tũthiĩ tũkoimbũrĩre Zayuni maũndũ marĩa Jehova Ngai witũ ekĩte.’
Chúa Hằng Hữu đã minh oan cho chúng ta. Hãy đến, chúng ta hãy công bố tại Si-ôn mọi việc mà Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời chúng ta đã làm.
11 “Noorai mĩguĩ, oyai ngo! Nĩgũkorwo Jehova nĩarahũrĩte athamaki a Amedi, nĩ ũndũ nĩaciirĩire kũniina Babuloni. Jehova nĩekwĩrĩhĩria harĩo, erĩhĩrie maũndũ marĩa meekirwo hekarũ yake.
Hãy chuốt mũi tên cho nhọn! Hãy đưa khiên lên cho cao! Vì Chúa Hằng Hữu đã giục lòng các vua Mê-đi thi hành kế hoạch tấn công và tiêu diệt Ba-by-lôn. Đây là sự báo trả của Chúa, báo trả cho Đền Thờ của Ngài.
12 Haandai bendera kũrigania na thingo cia Babuloni! Ongererai agitĩri, igai arangĩri, mũhaarĩrie andũ a kũhithũkĩra njĩra-inĩ! Jehova nĩekũhingia ũrĩa aciirĩire gwĩka, ahingie uuge wake wa kũrũmĩrĩrwo, wa gũũkĩrĩra andũ a Babuloni.
Hãy dựng cờ chống lại tường lũy Ba-by-lôn! Hãy tăng cường lính canh, đặt thêm trạm gác. Chuẩn bị phục kích, vì Chúa Hằng Hữu đã hoàn tất chương trình của Ngài chống lại Ba-by-lôn.
13 Wee ũtũũraga gũkuhĩ na njũũĩ nyingĩ, na ũkeigĩra indo nyingĩ igĩĩna-inĩ ciaku-rĩ, ithirĩro rĩaku nĩ ikinyu, nĩ ihinda rĩaku rĩa kweherio.
Ngươi là thành sống giữa các dòng sông, là trung tâm giao thương lớn, nhưng ngươi đã đến ngày tận số. Dòng đời ngươi đã chấm dứt.
14 Jehova Mwene-Hinya-Wothe nĩehĩtĩte akĩgwetaga rĩĩtwa rĩake, akoiga atĩrĩ: Ti-itherũ nĩngatũma ũũkĩrĩrwo nĩ andũ aingĩ o ta mĩrumbĩ ya ngigĩ, nao makuugĩrĩrie nĩ ũndũ wa gũkũhoota.
Chúa Hằng Hữu Vạn Quân đã có lời thề và lấy Danh Ngài mà thề rằng: “Địch quân sẽ tràn ngập các thành ngươi như hàng triệu cào cào cắn phá, tiếng chúng reo hò chiến thắng vang dội khắp nơi.”
15 “Nĩwe wombire thĩ na ũndũ wa hinya wake; ningĩ akĩhaanda thĩ na ũũgĩ wake, na agĩtambũrũkia matu mairũ na ũndũ wa ũmenyo wake.
Chúa Hằng Hữu sáng tạo địa cầu bởi quyền năng và Ngài đã bảo tồn bằng sự khôn ngoan. Với tri thức của chính Chúa, Ngài đã giăng các tầng trời.
16 Hĩndĩ ĩrĩa agũũthũka-rĩ, maaĩ marĩa marĩ igũrũ matu-inĩ nĩmarurumaga; nĩwe ũtũmaga thaatũ wambate na igũrũ kuuma ituri ciothe cia thĩ. Atũmaga rũheni rũũke rũrehanĩte na mbura, na akahingũrĩra rũhuho ruume makũmbĩ-inĩ make.
Khi Chúa phán liền có tiếng sấm vang, các tầng trời phủ đầy nước. Ngài khiến mây dâng cao khắp đất. Ngài sai chớp nhoáng, mưa, và gió bão ra từ kho tàng của Ngài.
17 “Andũ othe nĩmagĩte meciiria na makaaga ũmenyo, nake mũturi wa thahabu o wothe nĩaconorithĩtio nĩ mĩhianano ĩyo yake. Nĩ ũndũ mĩhianano ĩyo yake nĩ ya maheeni; ndĩrĩ mĩhũmũ thĩinĩ wayo.
Mọi người đều vô tri, vô giác, không một chút khôn ngoan! Người thợ bạc bị các thần tượng mình sỉ nhục, vì việc tạo hình tượng chỉ là lừa dối. Tượng không có chút hơi thở hay quyền năng.
18 Ndĩrĩ kĩene, nĩ indo cia kũnyararwo; narĩo ihinda rĩayo rĩa gũciirithio rĩakinya-rĩ, nĩĩgathira biũ.
Tượng không có giá trị; là vật bị chế giễu! Đến ngày đoán phạt, tất cả chúng sẽ bị tiêu diệt.
19 We ũcio Rũgai rwa Jakubu ndatariĩ tayo, nĩgũkorwo nĩwe Mũũmbi wa indo ciothe, o hamwe na mũhĩrĩga ũrĩa eegwatĩire ũtuĩke igai rĩake; Jehova Mwene-Hinya-Wothe nĩrĩo rĩĩtwa rĩake.
Nhưng Đức Chúa Trời của Gia-cốp không phải là tượng! Vì Ngài là Đấng Sáng Tạo vạn vật và dựng nước Ít-ra-ên của Ngài. Danh Ngài là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân!
20 “Nĩwe njũgũma yakwa ya ita, na nowe kĩndũ gĩakwa kĩa mbaara: nĩwe hũthagĩra kũhehenja ndũrĩrĩ, na ngatũmĩra hinya waku kũniina mothamaki.
“Ngươi là lưỡi rìu và vũ khí chiến trận của Ta,” Chúa Hằng Hữu phán. “Ta sẽ dùng ngươi để đập tan các nước và tiêu diệt nhiều vương quốc.
21 Nĩwe hũthagĩra kũhehenja mbarathi na mũmĩhaici, ngakũhũthĩra kũhehenja ngaari ya ita na mũmĩtwari,
Ta sẽ dùng ngươi chà nát các quân đội— tiêu diệt ngựa và lính kỵ, chiến xa, và người lái xe.
22 ngakũhũthĩra kũhehenja mũndũ mũrũme na mũndũ-wa-nja, ngakũhũthĩra kũhehenja mũndũ mũkũrũ na ũrĩa mwĩthĩ, o na ngakũhũthĩra kũhehenja mwanake na mũirĩtu,
Ta sẽ dùng ngươi hình phạt đàn ông và phụ nữ, người già và trẻ nhỏ, các thanh niên và thiếu nữ.
23 Ngakũhũthĩra kũhehenja mũrĩithi na rũũru rwake rwa mbũri, ngakũhũthĩra kũhehenja mũrĩmi na ndegwa ciake cia kũrĩma, o na ngakũhũthĩra kũhehenja abarũthi na anene.
Ta sẽ phân tán người chăn lẫn bầy gia súc, nông dân lẫn trâu bò, tướng lãnh lẫn quan chức.
24 “Na rĩrĩ, Babuloni na arĩa othe matũũraga Kalidei, ngaamacookereria ũũru wao mũkĩĩonagĩra, ũũru wothe ũrĩa maaneka kũu Zayuni,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
Ta sẽ báo trả Ba-by-lôn và tất cả người Canh-đê vì các việc ác chúng đã làm cho dân Ta tại Giê-ru-sa-lem,” Chúa Hằng Hữu phán vậy.
25 “Nĩngũgũũkĩrĩra wee kĩrĩma gĩkĩ gĩa kũniinana, wee ũniinaga thĩ yothe.” ũguo nĩguo Jehova ekuuga. “Nĩngũgũtambũrũkĩria guoko ngũũkĩrĩre, ngũgaragarie ngũrute ndwaro-inĩ cia mahiga, na ndũme ũtuĩke ta kĩrĩma gĩcinĩtwo nĩ mwaki.
“Này, hỡi núi hùng vĩ, là kẻ tiêu diệt các nước! Ta chống lại ngươi,” Chúa Hằng Hữu phán. “Ta sẽ giá tay đánh ngươi, khiến ngươi lăn xuống từ vách núi. Khi Ta hoàn thành, ngươi sẽ bị cháy rụi.
26 Gũtirĩ ihiga rĩkarutwo harĩwe rĩtuĩke rĩa koine, o na kana ihiga o rĩothe rĩa mũthingi, nĩ ũndũ ũgũtũũra ũkirĩte ihooru nginya tene,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
Ngươi sẽ điêu tàn mãi mãi. Không ai dùng đá từ ngươi để xây nền hay làm đá góc nhà. Ngươi sẽ bị quét sạch khỏi mặt đất,” Chúa Hằng Hữu phán.
27 “Haandai bendera bũrũri-inĩ, huhai karumbeta ndũrĩrĩ-inĩ! Thagathagai ndũrĩrĩ ikahũũrane nake; ĩtai mothamaki maya meturanĩre, mamũũkĩrĩre: mothamaki ma Ararati, na Mini, na Ashikenazu. Mũigĩrei mũnene wa ita wa kũmũũkĩrĩra; ambatiai mbarathi cia ita nyingĩ ta mĩrumbĩ ya ngigĩ.
Hãy giương cờ trong xứ. Hãy thổi kèn khắp các nước! Chuẩn bị các nước để chiến tranh với Ba-by-lôn. Hãy triệu tập các đội quân A-ra-rát, Minh-ni, và Ách-kê-na. Hãy cử một tướng chỉ huy, và sai ngựa chiến ra trận như châu chấu!
28 Thagathagai ndũrĩrĩ ikahũũrane nake; thagathagai athamaki a Amedi, na abarũthi, na anene ao othe, na andũ a mabũrũri mothe marĩa maathagwo nĩo.
Hãy điều động đội quân từ các nước— dẫn đầu bởi vua Mê-đi và tất cả thủ lĩnh và quan cai trị trong xứ đánh nó.
29 Bũrũri nĩũrathingitha na ũkenyogonda nĩ ruo, nĩgũkorwo ũndũ ũrĩa Jehova aciirĩire gwĩka Babuloni nĩ mũrũmu: wa kũharagania bũrũri wa Babuloni nĩguo kwage mũndũ ũngĩtũũra kuo.
Mặt đất run rẩy và quặn đau, vì tất cả các ý định của Chúa Hằng Hữu về Ba-by-lôn sẽ được thực hiện. Ba-by-lôn sẽ biến thành hoang mạc hoang vắng không còn một bóng người.
30 Njamba iria irĩ hinya cia Babuloni nĩitigĩte kũrũa; ciikarĩte ciĩgitio-inĩ ciacio iria nũmu. Hinya wacio nĩ mũthiru; ihaanĩte o ta andũ-a-nja. Ciikaro ciakuo nĩicinĩtwo na mwaki; mĩgĩĩka ya ihingo ciakuo nĩ miunange.
Các chiến sĩ hùng mạnh của Ba-by-lôn ngừng chiến đấu. Chúng rút vào trong chiến lũy, sức mạnh của họ không còn nữa. Chúng trở nên như phụ nữ. Nhà cửa chúng bị đốt sạch và các then cổng thành đã bị bẻ gãy.
31 Mũtwari ndũmĩrĩri ũmwe ararũmĩrĩrwo nĩ ũngĩ, nake mũrekio akarũmĩrĩrwo nĩ mũrekio ũrĩa ũngĩ, makamenyithie mũthamaki wa Babuloni atĩ itũũra rĩu rĩake inene rĩothe nĩrĩtunyane,
Hết người đưa tin này đến người đưa tin khác như sứ giả vội vàng báo lên vua rằng thành trì của vua bị chiếm đoạt.
32 ningĩ mariũko ma njũũĩ nĩmanyiite, na kũrĩa kũrĩ marura gũgaacinwo na mwaki, nacio thigari ikanyiitwo nĩ guoya.”
Mọi ngõ ngách trốn chạy đều bị canh giữ. Các đầm lầy bị thiêu cháy, và quân lính đang trong tình trạng hoảng sợ.
33 Jehova Mwene-Hinya-Wothe, o we Ngai wa Isiraeli, ekuuga atĩrĩ: “Mwarĩ wa Babuloni atariĩ ta kĩhuhĩro kĩa ngano hĩndĩ ĩrĩa yaraganĩtio ĩkĩrangĩrĩrio; kahinda gake ga kũgethwo nĩgegũkinya o narua.”
Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, phán: “Ba-by-lôn giống như lúa mì trên sân đập lúa, vào kỳ đập lúa. Không bao lâu nữa mùa gặt sẽ bắt đầu.”
34 “Nebukadinezaru mũthamaki wa Babuloni nĩatũmeretie, nĩatũreheire kĩrigiicano, agatũma tũtuĩke ta nyũngũ ya rĩũmba ĩtarĩ kĩndũ. Nĩatũmerũkĩtie o ta ndamathia, nayo nda yake akamĩiyũria na indo ciitũ iria irĩ mũrĩo, na nĩacookete agatũtahĩka.
“Vua Nê-bu-cát-nết-sa, nước Ba-by-lôn, đã ăn và nghiền nát chúng con và uống cạn sức mạnh của chúng con. Vua nuốt chửng chúng con như quái vật nuốt mồi, làm cho bụng vua đầy của cải châu báu của chúng con. Rồi vua ném chúng con ra khỏi thành mình.
35 Maũndũ ma ũhinya marĩa maanekwo nyama ciitũ-rĩ, marocookerera Babuloni,” ũguo nĩguo atũũri a Zayuni mekuuga. “Thakame iitũ ĩrocookerera acio maikaraga kũu Babuloni,” ũguo nĩguo Jerusalemu ĩkuuga.
Xin khiến Ba-by-lôn đau như nó đã khiến chúng con đau,” dân cư Si-ôn nói. “Nguyện máu của chúng con đổ lại trên người Ba-by-lôn,” Giê-ru-sa-lem nói.
36 Nĩ ũndũ wa ũguo-rĩ, Jehova ekuuga ũũ: “Atĩrĩrĩ, niĩ nĩngũkũrũĩrĩra na ngũrĩhĩrie; nĩngahũithia iria rĩake, na ndũme ithima ciake ihũe.
Đây là điều Chúa Hằng Hữu phán về Giê-ru-sa-lem: “Ta sẽ biện hộ cho các con, và Ta sẽ báo thù cho các con. Ta sẽ làm cho sông nó khô và các suối nó cạn,
37 Babuloni gũgaatuĩka hĩba ya kũndũ kwanangĩku, na imamo cia mbwe, na kũndũ gwa kũmakania, na gwa gũthekererwo, kũndũ gũtarĩ mũndũ ũngĩtũũra kuo.
Ba-by-lôn sẽ trở thành một đống đổ nát, thành hang chó rừng. Nó sẽ thành chốn ghê rợn và bị khinh miệt, là nơi không ai ở.
38 Andũ othe akuo makaararamaga ta mĩrũũthi mĩĩthĩ, makaarurumaga ta njaũ cia mĩrũũthi.
Chúng cùng nhau rống như sư tử tơ. Gầm gừ như sư tử con.
39 No rĩrĩ, hĩndĩ ĩrĩa magaakorwo macinĩtwo nĩ thuti-rĩ, nĩrĩo ngaamarugithĩria iruga, na ndũme marĩĩo nĩ njoohi, nĩguo magaatheka maanĩrĩire, macooke makome toro nginya tene, na maticooke gũũkĩra,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
Nhưng trong khi chúng nằm say túy lúy, Ta sẽ dọn cho chúng một tiệc rượu khác. Ta sẽ khiến chúng uống đến mê man bất tỉnh, và chúng sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa,” Chúa Hằng Hữu phán vậy.
40 “Ngaamaikũrũkia ta tũgondu tũgĩthiĩ gũthĩnjwo, o na ta ndũrũme irĩ hamwe na thenge.
“Ta sẽ kéo chúng xuống như chiên con đến hàng làm thịt, như chiên đực và dê bị giết để cúng tế.
41 “Hĩ, kaĩ Sheshaki nĩrĩkeegwatĩrwo-ĩ, itũũra rĩu rĩĩrahagwo nĩ thĩ yothe kaĩ nĩinyiite-ĩ! Babuloni gũgaatuĩka kũndũ gwa kũmakania thĩinĩ wa ndũrĩrĩ ciothe!
Sê-sác đã bị sụp đổ— Ba-by-lôn vĩ đại, thành được cả thế giới ca ngợi! Bây giờ, nó đã trở thành chốn ghê tởm giữa các nước.
42 Iria rĩrĩa inene nĩrĩkaiyũra Babuloni guothe; mũrurumo wa ndiihũ ciarĩo nĩguo ũgaakũhubanĩria.
Biển đã tràn ngập Ba-by-lôn; nhận chìm nó dưới các lượn sóng.
43 Matũũra makuo nĩmakirĩte ihooru, matuĩke bũrũri mũũmũ na werũ ũtarĩ kĩndũ, bũrũri ũtarĩ mũndũ ũngĩũtũũra, kũndũ gũtarĩ mũndũ ũgeragĩra kuo.
Các thành nước Ba-by-lôn đều đổ nát; như đồng hoang, như sa mạc, không một người cư trú hay không ai bén mảng đến.
44 Nĩngaherithĩria Beli kũu Babuloni na ndũme ĩtahĩke kĩndũ kĩrĩa gĩothe ĩmeretie. Ndũrĩrĩ itigacooka kũhatĩkana igĩthiĩ kũrĩ yo. Naruo rũthingo rwa Babuloni nĩrũkaagũa.
Ta sẽ đoán phạt Bên, là thần của Ba-by-lôn, và rứt ra khỏi miệng nó những con mồi nó đã cắn. Các nước không còn kéo lên thờ phượng nó nữa. Thành lũy Ba-by-lôn sẽ sụp đổ!”
45 “Umai kũu thĩinĩ warĩo, inyuĩ andũ akwa! Mwĩtharei, mũhonokie mĩoyo yanyu! Mwĩtharei, mweherere marakara marĩa mahiũ ma Jehova.
“Hỡi dân Ta, hãy chạy khỏi Ba-by-lôn. Hãy tự cứu mình! Hãy tránh khỏi cơn giận phừng phừng của Chúa Hằng Hữu.
46 Mũtikanareke ngoro cianyu ciũrwo nĩ hinya, kana mwĩtigĩre hĩndĩ ĩrĩa ndeto cia mũhuhu ikaiguuo bũrũri-inĩ; ũhoro ũmwe wa mũhuhu nĩũkaiguuo mwaka ũyũ, na ũngĩ ũiguuo mwaka ũcio ũngĩ ũrũmĩrĩire, mũhuhu ũkoniĩ ndeto cia haaro bũrũri-inĩ, na wa mwathani ũmwe agĩũkĩrĩra mwathani ũrĩa ũngĩ.
Nhưng đừng kinh hoảng; đừng sợ hãi khi các con nghe tin đồn. Vì tin đồn sẽ tiếp tục dồn dập hết năm này đến năm khác. Bạo lực sẽ nổ ra khắp xứ, lãnh đạo này sẽ chống nghịch lãnh đạo kia.
47 Nĩgũkorwo ti-itherũ ihinda nĩrĩgooka rĩrĩa ngaaherithia ngai cia mĩhianano ya Babuloni; bũrũri ũcio wothe nĩũgaconorithio, nao andũ akuo arĩa othe moragĩtwo nĩmakaaragana kuo.
Chắc chắn thời kỳ Ta đoán phạt thành vĩ đại này và tất cả thần tượng của nó sẽ đến. Cả nước sẽ bị nhục nhã, xác chết đầy dẫy các đường phố.
48 Hĩndĩ ĩyo igũrũ na thĩ na kĩrĩa gĩothe kĩrĩ kuo nĩikanĩrĩra nĩ gũkena igĩkenerera Babuloni, nĩgũkorwo aniinani nĩmakarĩtharĩkĩra, moimĩte mwena wa gathigathini,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
Rồi các tầng trời và đất sẽ vui mừng, vì quân xuất phát từ phương bắc sẽ tấn công và tiêu diệt Ba-by-lôn,” Chúa Hằng Hữu phán vậy.
49 “Babuloni no nginya gũkaagũa nĩ ũndũ wa andũ a Isiraeli arĩa maanooraga, ũguo noguo andũ a mabũrũri mothe makaagũa thĩ, moragĩtwo nĩ ũndũ wa Babuloni.
“Ba-by-lôn đã tàn sát dân tộc Ít-ra-ên và các nước trên thế giới thế nào, thì nay người Ba-by-lôn cũng bị tàn sát thế ấy.
50 Inyuĩ mũhonokete kũũragwo na rũhiũ rwa njora-rĩ, mwĩtharei na mũtikagonderere! Ririkanagai Jehova mũrĩ bũrũri wa kũraya, na mwĩciiragie ũhoro wa Jerusalemu.”
Hãy bước ra, hỡi những người thoát chết khỏi lưỡi gươm! Đừng đứng đó mà xem—hãy trốn chạy khi còn có thể! Hãy nhớ Chúa Hằng Hữu, dù ở tận vùng đất xa xôi, và hãy nghĩ về nhà mình trong Giê-ru-sa-lem.”
51 “Nĩtũconorithĩtio, nĩgũkorwo nĩtũrumĩtwo, na tũkahumbwo thoni mothiũ maitũ, tondũ andũ a kũngĩ nĩmatoonyete kũndũ kũrĩa kwamũre thĩinĩ wa nyũmba ya Jehova.”
Dân chúng nói: “Nhưng chúng con xấu hổ, chúng con bị sỉ nhục phải trùm mặt lại vì Đền Thờ của Chúa Hằng Hữu bị quân ngoại bang xâm phạm.”
52 Jehova ekuuga atĩrĩ, “Matukũ nĩmagooka rĩrĩa ngaaherithia mĩhianano yake, nao andũ arĩa agurarie kũu bũrũri-inĩ ũcio guothe nĩmagacaaya.
Chúa Hằng Hữu đáp: “Đúng vậy, nhưng sắp đến thời kỳ Ta tiêu diệt các thần tượng Ba-by-lôn. Khắp đất nước Ba-by-lôn chỉ nghe tiếng rên la của các người bị thương tích.
53 O na kũngĩtuĩka Babuloni gwĩtũũgĩrĩtie gũgakinya o matu-inĩ, na ciĩhitho ciakuo ikairigĩrwo na hinya mũno-rĩ, no ngaakũrehithĩria aniinani magũũkĩrĩre,” ũguo nĩguo Jehova ekuuga.
Dù Ba-by-lôn lừng lẫy tận trời, dù cho thành lũy nó vô cùng kiên cố, Ta cũng sai những kẻ tàn hại tiêu diệt nó. Ta, Chúa Hằng Hữu đã phán vậy!”
54 “Mũgambo wa kĩrĩro nĩũraiguuo kũu Babuloni; nĩ mũgambo wa kũniinanwo ũraiguuo kũu bũrũri wa andũ a Babuloni.
“Hãy lắng nghe! Từ Ba-by-lôn có tiếng kêu la vang dội, tiếng tàn phá khốc liệt từ đất của người Ba-by-lôn.
55 Jehova nĩakaniina Babuloni; nĩagakiria inegene rĩu inene rĩakuo. Makũmbĩ ma thũ makaahũũyũka taarĩ mũrurumo wa maaĩ maingĩ. Mũrurumo wa mĩgambo yao nĩĩkaiguuagwo.
Vì Chúa Hằng Hữu sẽ tàn phá Ba-by-lôn. Chúa bắt nó câm miệng. Các lượn sóng kẻ thù như nước lũ gào thét át mất tiếng kêu của Ba-by-lôn.
56 Mũniinani nĩagookĩrĩra Babuloni; njamba ciakuo iria irĩ hinya nĩikaanyiitwo, namo mota mao moinangwo. Nĩ ũndũ Jehova nĩ Mũrungu ũrĩhanagĩria; we akaarĩhanĩria biũ.
Kẻ hủy diệt tiến đánh Ba-by-lôn. Các chiến sĩ cường bạo nó sẽ bị bắt, các vũ khí của chúng nó sẽ bị bẻ gãy. Vì Chúa Hằng Hữu là Đức Chúa Trời hình phạt công minh; Ngài luôn báo trả xứng đáng.
57 Anene akuo, na andũ arĩa ogĩ, o na abarũthi akuo, o ũndũ ũmwe na anene akuo, o na njamba ciakuo iria irĩ hinya, othe nĩngatũma marĩĩo nĩ njoohi; magaakoma nginya tene, na matiũkĩre,” nĩguo Mũthamaki ekuuga, o we ũrĩa rĩĩtwa rĩake arĩ Jehova Mwene-Hinya-Wothe.
Ta sẽ làm cho các vua chúa và những người khôn ngoan say túy lúy, cùng với các thủ lĩnh, quan chức, và binh lính. Chúng sẽ ngủ một giấc dài và không bao giờ tỉnh dậy!” Vua là Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán vậy.
58 Jehova Mwene-Hinya-Wothe ekuuga atĩrĩ: “Rũthingo rwa Babuloni rũrĩa rwariĩ nĩrũkangʼaũranio biũ, nacio ihingo ciakuo iria ndaaya na igũrũ icinwo na mwaki; andũ menogagia tũhũ, naguo wĩra wa ndũrĩrĩ no ngũ cia gũcinwo na mwaki.”
Đây là điều Chúa Hằng Hữu Vạn Quân phán: “Các thành lũy rộng thênh thang của Ba-by-lôn sẽ bị san bằng, các cổng đồ sộ cao vút sẽ bị thiêu hủy. Dân chúng kiệt sức mà chẳng được gì, công khó của các dân chỉ dành cho lửa!”
59 Ĩno nĩo ndũmĩrĩri ĩrĩa Jeremia aaheire Seraia mũrũ wa Neria, mũrũ wa Maaseia, o ũcio warĩ mũnene ũrĩa mũrori wa maũndũ ma nyũmba ya mũthamaki, rĩrĩa aathiire Babuloni marĩ na Zedekia mũthamaki wa Juda mwaka-inĩ wa ĩna wa ũthamaki wake.
Tiên tri Giê-rê-mi gửi sứ điệp này cho một quan đại thần là Sê-ra-gia, con Nê-ri-gia, và cháu Ma-sê-gia, khi Sê-ra-gia đến Ba-by-lôn cùng Vua Sê-đê-kia, nước Giu-đa. Nhằm năm thứ tư triều Sê-đê-kia.
60 Jeremia nĩandĩkĩte ibuku-inĩ rĩa gĩkũnjo ũhoro wothe ũkoniĩ mwanangĩko ũrĩa ũgaakinyĩrĩra Babuloni: maũndũ marĩa mothe maandĩkĩtwo makoniĩ Babuloni.
Giê-rê-mi chép vào cuốn sách những lời tiên tri về sự suy vong của Ba-by-lôn—mọi lời đều được chép vào đây.
61 Jeremia akĩĩra Seraia atĩrĩ, “Wakinya Babuloni-rĩ, ũgaatigĩrĩra atĩ nĩwathoma mohoro maya mothe wanĩrĩire.
Ông nói với Sê-ra-gia: “Khi ông đến Ba-by-lôn, hãy đọc lớn tiếng mọi lời trong cuộn sách này.
62 Ũcooke uuge atĩrĩ, ‘Wee Jehova, nĩugĩte nĩũkũniina kũndũ gũkũ, nĩgeetha gũtikanatũũrwo nĩ mũndũ, o na kana nyamũ; gũgũtũũra gũkirĩte ihooru nginya tene.’
Rồi cầu nguyện: ‘Lạy Chúa Hằng Hữu, Ngài đã phán sẽ tiêu diệt Ba-by-lôn đến nỗi không còn một sinh vật nào sống sót. Nó sẽ bị bỏ hoang vĩnh viễn.’
63 Warĩkia gũthoma ibuku rĩu rĩa gĩkũnjo-rĩ, ũrĩoherere ihiga, ũrĩikie Rũũĩ rwa Farati.
Khi đọc xong cuộn sách này, ông hãy buộc sách vào một tảng đá và ném xuống Sông Ơ-phơ-rát.
64 Ũcooke uuge atĩrĩ, ‘Ũguo noguo Babuloni gũkaarikĩra kũũrĩre biũ, na gũtigacooka kuumĩra na igũrũ, nĩ ũndũ wa mwanangĩko ũrĩa ngaakũrehithĩria. Nao andũ akuo nĩmakaagũa.’” Ũhoro wa Jeremia ũkinyĩte hau.
Rồi nói: ‘Cùng cách này, Ba-by-lôn cũng sẽ chìm như thế, chẳng bao giờ chỗi dậy, vì sự đoán phạt Ta đổ trên nó.’” Lời của Giê-rê-mi đến đây là hết.

< Jeremia 51 >